Hôm nay,  

Kết Nối - Yêu Thương - Chữa Lành

31/05/202400:00:00(Xem: 2914)

Anne-Khánh-Vân-lãnh-giải-Việt-Bút-VVNM-2021
Anne Khánh Vân lãnh giải Việt Bút VVNM 2021
 
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ”. Tháng 12, 2021, tác giả nhận giải Việt Bút Trùng Quang VVNM 2021. 
*
* Má Hai khóc với Tày nhe…

Hồi tuần trước, cuối ngày làm việc, cháu trai của Khánh Vân là Huy Khang (HK), tên nhà là Tày, gọi điện thoại xin FaceTime. Khi hai màn hình video vừa hiện lên và nhìn thấy mặt nhau thì HK liền hỏi “Má Hai khóc với Tày được không?” Tôi nghe xong vừa ngạc nhiên vừa thương quá chừng quá đỗi. Huy Khang là một bé trai hoạt bát, rất có tình và rất biết để ý đến mọi người và mọi thứ xung quanh. Tuy nhiên, trong mười hai năm qua, từng năm tháng lớn lên, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi nghe HK hỏi một câu bất ngờ như vậy.

Tôi hỏi lại HK, “Ủa, con có chuyện gì mà muốn má Hai khóc với con?” Lúc đó trên màn hình, nhìn mặt bạn ấy như rươm rướm nước mắt, HK trả lời, “Hôm nay Tày đi chích ngừa và chích tới ba mũi một lúc!”  Lúc đó em dâu của tôi kể thêm chi tiết, “...trong khi chích thì tỉnh queo, nhưng khi vừa xong và cô y tá hỏi, “are you OK?” lúc đó mới khóc.”  Nghe xong tôi thấy thông cảm với tâm trạng của HK và nói phụ cháu “… thì chắc lúc đó cái đau của mấy mũi chích mới thấm, mới thấy đau, nên mới khóc phải không con?”

Huy Khang kể tiếp, “… má Hai, Tày đau và khóc mà ba Thắng không bồng Tày…” – Tôi lại thêm một lần ngạc nhiên và thấy thương quá trời. Rất tiếc hai má con đang cách xa nhau và phải nói chuyện qua FaceTime, nếu không chắc tôi cũng muốn ôm cháu một chút. Tôi tiếp lời, “Ồ, phải rồi, đáng lẽ ba Thắng đã phải bồng và an ủi con một chút lúc đó ha. Chắc tại ba Thắng lu bu lo công việc với y tá nên không kịp bồng con chứ gì?”

“Má Hai nhớ lúc con 3-4 tuổi, cũng đi chích ngừa ba bốn mũi. Má Hai đưa con đi hôm đó và chứng kiến con gồng lên khi cô y tá chích và con đã không khóc. Khi xong, cô y tá nhìn con và nói, ‘Wow, you are a super boy. You didn’t cry!’ Quả thật hôm đó con đã làm mọi người ngạc nhiên.”

Tôi tiếp tục, “… nhưng không sao hết, Huy Khang, khi con cảm thấy cần khóc, con cứ khóc tự nhiên. Ông Trời sinh ra con người có cảm xúc và cho mình có khả năng khóc là vì ông Trời biết sẽ có những lúc mình cần khóc mà. Cho nên không có gì sai hết khi mình muốn khóc con nhé.”

Chuyện của Huy Khang hôm đó làm tôi phải nhớ lại những ngày tháng ấu thơ của mình bốn mươi mấy năm về trước. Tôi không nhớ mình đã từng có những buổi chuyện trò tự nhiên thân thiện như vậy với ba má hay một người lớn nào. Những năm tháng khó khăn đó, có lẽ ngày nào ai cũng cần nói câu nói của Huy Khang…, không riêng trẻ con. Nhưng mỗi người đã tự mình luyện phải mạnh mẽ, mạnh mẽ cho phần mình và cho cả những người thân xung quanh. Không thể khóc! Và vì vậy, sự cố gắng và đè nén cảm xúc này đã thành thói quen. Dường như tôi lớn lên rất ít khóc và rất không-thích chuyện khóc lóc. Tôi cho khóc là yếu mềm, để rồi dần dà cứ đóng vai một người mạnh mẽ lúc nào không hay. Mỗi ngày khoác lên mình cái vỏ cứng cáp vô hình. Mạnh mẽ trở thành một thứ bản năng. Làm chủ được cả việc chận dòng nước mắt! Không bao giờ muốn mình là mối bận tâm của bất kỳ ai. Và thế là, mọi người mặc định cho tôi là giỏi giang, không cần quan tâm lo lắng thương yêu, không cần hỏi han ủi an vỗ về… Cọp mà!

*Vượt Qua Quá Khứ

Tôi có một người đồng nghiệp tương đối thân. Chúng tôi thân nhau cái kiểu người ta hay nói có thể cho nhau mượn bờ vai để khóc. Hoặc nếu đi mua thức ăn trưa về và ghé ngang bàn làm việc của nhau mà thấy đứa kia còn ngồi làm việc ráng, chưa ăn trưa dù đã trễ… thì sẽ tự động qua phòng bếp cắt một nửa ổ bánh mì, hoặc lấy dĩa xớt một nửa phần cơm vừa mua về, mang đến cho nhau… Và rồi chỉ cùng ăn trong hạnh phúc, không hề khách sáo từ chối.
Lúc mới vào công ty làm việc và được đưa đi vòng quanh giới thiệu, tôi để ý ánh mắt nhìn và nụ cười hiền hòa đặc biệt của anh Pao (tạm phiên âm tên anh như vậy). Anh có nét mềm mại nhẹ nhàng của một phụ nữ. Tôi đoán anh người Mông Cổ, nhưng sau đó chuyện trò thêm thì được biết anh người Kazakhstan.

Cũng nhờ mười mấy năm trước khi làm việc cho AECOM International Development tôi đã có cơ hội để ý Kazakhstan nằm ở đâu trên bản đồ vì AECOM có thầu với chính phủ Mỹ và Liên Hợp Quốc nên có công trình khắp nơi, nhất là những nước đang phát triển. Từ văn phòng trung ương bên Mỹ phải biết địa lý và múi giờ của từng nơi để canh giờ làm việc với nhân viên địa phương.

Tôi và anh Pao gần tuổi nhau nên rất dễ chuyện trò. Ngoài công việc chuyên môn, chúng tôi cũng thường nói chuyện gia đình lẫn thời sự.  Năm ngoái, anh và chồng quyết định về vùng San Francisco Bay Area để gần gia đình vì chồng anh Pao vừa khám phá bị ung thư. Không còn làm việc chung công ty nữa nhưng chúng tôi vẫn giữ liên lạc và thường xuyên hỏi thăm nhau.

Mới đây tôi có sang vùng Bay Area và thăm anh Pao. Chúng tôi đi dạo và chuyện trò. Tôi đã có dịp khám phá tuổi thơ của anh Pao và của tôi có nhiều điểm giống nhau. Anh Pao cũng có những ngày thơ ấu rất thiếu thốn và hay bị bạo hành. Nghe đến đó, tôi quay sang nhìn anh Pao và nói, “Ô, vậy sao, tôi cứ tưởng chỉ những trẻ nhỏ Việt Nam thời của tôi mới trải qua những chuyện như vậy thôi chứ!”

“Không, Anne ơi, những đứa trẻ thời của tôi, ở nước của tôi cũng vậy thôi. Kazakhstan và Việt Nam ít nhiều có những điểm giống nhau trong lịch sử: cũng chiến tranh, cũng đói khổ, người dân cũng bị cướp đoạt tài sản gia súc, một phần ba dân số chết trong nạn đói 1930-1932, rất nhiều những điều khủng khiếp đã diễn ra. Chúng ta là nạn nhân của những hung bạo. Ngày nào tôi cũng bị cha đánh đập, riết thành thói quen. Chẳng còn thấy nó là bất thường! Gia đình nào cũng bị ảnh hưởng. Sẽ phải mất nhiều thế hệ chữa lành để trở lại bình thường!”

Chúng tôi quay sang nhìn nhau, cảm thông!

Anh Pao nói tiếp, “…mà sao ngày đó tôi không hề biết khóc, Anne nhe. Tôi che giấu cảm xúc của mình rất giỏi. Chẳng biết nó là thứ sức mạnh gì. Đến mãi gần đây, khi chồng tôi bị ung thư, tôi không còn giữ được cảm xúc trong lòng nữa. Thuốc men và những gì chồng tôi đã trải qua khiến anh ta thay đổi tính cách. Tôi đi tắm ra, anh ta trách tôi tắm lâu và cằn nhằn. Trong khi tôi dành hết tất cả thời gian và tình yêu thương để chăm sóc anh ta thật chu đáo mấy năm qua và gần như mỗi ngày chỉ dành cho mình 15 phút. Hôm đó, tôi hết chịu nổi, lái xe ra công viên khóc hết nước mắt rồi về lại nhà!” “…Tôi khóc như một đứa trẻ, Anne ạ!”

Tôi đi chậm lại và nhìn sang anh Pao. Anh Pao kể chuyện khóc mà cười tươi như được trút bầu tâm sự. Tôi muốn thấy nụ cười ấy kéo dài lâu hơn. Chúng tôi như nói chuyện của kiếp trước mà mình đã thoát khỏi, không còn chút ảnh hưởng hay sợ sệt. Tôi pha trò, nửa đùa, nửa thật: 

“Ôi, anh Pao, có phải thời gian đó anh cũng đi vào tuổi 50 không? Có phải anh cũng cảm giác đã chấp nhận, hy sinh quá nhiều và bao dồn nén của 50 năm qua đến lúc phải được thoát ra ngoài, cần được tự do, cần được đền bù?” Tôi nói tiếp, “hình như một số người nói về sự kiện này là ‘midlife crisis’ – khủng hoảng tuổi trung niên, ai cũng trải qua, và như ông xếp của tôi, ông ta đã quyết định đi mua cho mình một chiếc xe mới!” Tôi cười.

Anh Pao ngừng lại, đếm nhẫm và nói, “Đúng rồi, hồi năm kia, lúc tôi sang tuổi 50, và tôi cũng có mua một chiếc xe mới!” Anh Pao nhìn tôi cười toe và tiếp tục, “... đừng nói, Anne cũng đang trải qua những chuyện khóc cười này và cũng mua cho mình một chiếc xe mới nhé.”  Chúng tôi cùng nhau cười to.
Tôi đã có dịp thú thật chuyện của những tháng qua mà chỉ chim chóc ếch nhái xung quanh nhà tôi thấy và biết.  Tôi đã đặt nhiều câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống, về sứ mệnh, về sự hiện diện và vị trí của mỗi người trong đời nhau… Tôi cũng đã khóc bù cho 50 năm qua!

Càng nói chuyện, chúng tôi càng thấy thật cảm thông cho nhau. Chúng tôi hiểu ra gốc rễ của những nỗi đau. Những đứa trẻ (nay đã bắt đầu “rà”) của những thời đại bị nhiều tổn thương nhưng bằng cách này cách kia, chúng tôi đã luôn cố gắng vượt lên chính mình, vượt lên mọi hoàn cảnh, vượt ra khỏi bóng tối trầm cảm… để chuyển hóa và biến những vết thương, những vết thẹo trên thân và tâm của mình thành những bông hoa.

Chúng tôi tiếp tục những bước đi thảnh thơi dưới những hàng cây cổ thụ. Vừa đi vừa lột bỏ lại sau lưng những mảnh áo giáp, những mặt nạ cứng ngắt mỗi ngày đã phải đeo vào… bao lâu nay.

Buông bỏ, xả ly… chúng tôi đang cho mình thụt lùi thời gian, trở về với con người thật, bé nhỏ xa xưa…và lớn lên lại một cách lành lặn, đúng nghĩa: Sống thật với cảm xúc và mạnh dạn chia sẻ. Trong sáng, tự nhiên, chân thành, tin tưởng!

* Tình Yêu Thương từ Ukraine…

Những năm tháng làm việc ở AECOM, tôi có nhiều bạn ở nhiều vùng trên thế giới.

Alexandra và Yana là người Ukraine. Ngoài công việc chuyên môn, hầu như bạn gái Ukraine nào cũng được mẹ và bà dạy đan nên họ đan khăn, nón, và áo rất khéo. Họ cũng rất sáng tạo và có mắt mỹ thuật.

Khi chiến tranh ở Ukraine bắt đầu, gần như ngày nào chúng tôi cũng nhắn tin cho nhau. Có những lần, nhiều ngày liền không có tin, khi liên lạc lại được, Alexandra và Yana báo vừa bị bỏ bom; người thân tử trận; tối tăm, giá rét, đổ nát... phủ trùm.

Sau nhiều ngày mất điện, từng vùng thay phiên nhau có điện vài giờ trong ngày. Phải tranh thủ làm hết những gì cần thiết trong vài giờ đó trước khi trở lại với bóng đêm và giá lạnh.

Có nào ngờ... thế hệ sinh ra trong hòa bình như Huy Khang, Khánh An, Bảo Ngân, Duy Thiện... vẫn còn đang lớn lên; những vết thương chiến tranh của nhiều thế kỷ trước hằn trên cha mẹ chúng mà tôi và anh Pao vừa nói chuyện vẫn còn đau nhức, vẫn còn cần nhiều thế hệ để chữa lành; trầm cảm vẫn chưa tan... thì rồi, lại mọc thêm những cái mới!

Một hôm Alexandra nói với tôi, “Anne, chúng tôi có một số đồ len đã móc hoàn tất. Thật sự là chúng tôi ở đây chỉ sống từng giờ, từng phút, không biết giờ sau, phút sau ra sao. Mọi thứ có thể trở thành tro bụi trong tíc-tắc. Tôi muốn gửi những đồ len này sang tặng cho Anne. Anne chỉ cần trả tiền gửi. Tuy nhiên sẽ phải đợi hai ba tuần vì nhiều thứ bị ngưng trệ.”

Nghe bạn nói xong tôi không khỏi ngạc nhiên và xúc động. Trong khi đất nước đang trong cơn tan tác, khẩn trương vì cuộc chiến, cứ ngỡ các bạn tôi cần tình yêu thương từ khắp nơi gửi đến, nhưng không. Họ lại gửi ra ngoài này bao nhiêu yêu thương.

Các bạn Ukraine này quả thật đặc biệt! Tinh thần thật mãnh liệt. Trong hoàn cảnh như vậy mà tình yêu thương của họ vẫn đong đầy, và có thể còn nhiều hơn thường lệ. Có lẽ họ nhận ra sự vô thường, giá trị của sự sống... Và vì vậy, càng nên yêu thương ngay giây phút hiện tại. Có lần tôi đã hỏi gia đình Alexandra có muốn sang Mỹ tị nạn thì không một chút do dự, Alexandra trả lời rằng các chị em phụ nữ họ đã quyết định sẽ không chạy đi đâu mà chỉ ở lại để hỗ trợ cho cha, chú, chồng, anh em... của họ.

Tôi nghĩ ra cách giúp các bạn mình vượt qua sự chờ đợi trong thời gian khó khăn này. Tôi gửi số đo, gửi kiểu và nhờ Alexandra móc thêm cho tôi áo và nón. Tôi chuyển tiền sang cho Alexandra mua len, kim móc có đèn dùng bằng pin... Tôi giới thiệu với các bạn bên Mỹ xem ai có muốn đồ đan thì đặt Alexandra để tạo thêm công việc cho Alexandra và những phụ nữ trong gia đình. Tôi có xin được thêm từ một số bạn bè người thân và gửi thêm một ít hỗ trợ sang cho các bạn Ukraine.

Sau hai ba tuần, những món đồ xinh xắn đã vượt bom đạn, khói lửa, đại dương... từ Ukraine đến Mỹ, và đến trước cửa nhà tôi.

Lạ một điều, mỗi lần có dịp mặc những chiếc áo len đó thì tôi luôn được nhận rất nhiều lời khen; và hễ tôi chỉ vừa nói rằng một người bạn ở Ukraine đã đan cho tôi thì họ liền nói trước khi tôi kịp kể chi tiết: “bạn của Anne đã đan với thật nhiều tình yêu thương…”

Dường như tình yêu thương của các bạn toát ra và hiện lên trên từng mũi đan và lấp lánh trên từng sợi len, sáng lên trong đêm tối, không đèn.

Chúng ta thường nghe nói tình yêu thương không biên giới... Và nó có vẻ lý thuyết!  Tôi đã có dịp chứng nghiệm. Quả thật, tình yêu thương không có giới hạn màu da, hay địa lý. Nó có thể đi xuyên không gian, thời gian.

Và những đứa trẻ này, Pao, Alexandra, Yana hay Anne KV, kể cả Huy Khang… dù khác màu da, khác dòng máu, khác thời đại… đều có cùng khát khao yêu thương. Họ có thể trở nên thân thương và quan tâm đến nhau một cách diệu lạ. Họ cũng có nhiều điểm rất chung: Biết yêu thương – tha thứ.

Những nỗi đau cũng có nhiều điểm chung. Chúng không giới hạn trong một gia đình hay một quốc gia. Chúng là những nỗi đau chung của nhân loại mà sức ảnh hưởng sẽ kéo dài qua nhiều đời.

***

* Sống Thật – Yêu Thật!

Anh Pao chia sẻ với tôi rằng anh đã mất nhiều năm để có thể thoát khỏi trầm cảm và tha thứ cho cha anh. Anh Pao đạo Công Giáo. Hôm nói chuyện, chúng tôi nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu khi bị đóng đinh trên thánh giá và những lời Ngài dạy, “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em,”  Chúa cũng đã cầu xin Đức Chúa Cha: “xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm...” Và một ngày nọ, suy nghĩ đó đã giúp anh Pao tha thứ cho cha anh, cho những bạo hành mà anh đã lãnh chịu suốt thời niên thiếu, cho những mạnh mẽ, những cái đàn ông mà anh đã bị tước mất đi…
“Nếu cha tôi biết hậu quả và mức độ ảnh hưởng của những việc ông làm, nếu cha của chúng ta biết họ đã làm chúng ta khổ đau biết bao lâu nay... thì chắc họ đã không làm như vậy!”

Hình như chúng ta có khuynh hướng phạm lỗi lầm vì chúng ta không tin luật nhân quả; chúng ta cũng không thấy ra sớm đủ rằng một việc làm tàn bạo hay sai trái hôm nay, có khi phải trả quả báo qua bao nhiêu kiếp vẫn chưa xong.

Chúng ta chọn giấu giếm cảm xúc và chọn sống giả để được ngợi khen, để cứ mãi bị cuốn vào những ảo tưởng xung quanh; hay là chúng ta chọn sống thật với chính mình dù nó có như thế nào?

Tôi đã mừng khi thấy con cháu mình dám sống thật với những cảm xúc và mạnh dạn chia sẻ suy nghĩ với ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác... Điều mà ít nhất là thế hệ của tôi đã không dám sống, không được sống... và vẫn còn tập tành.

Có lẽ do mình đã biết yêu thương hơn và biết cách cho thế hệ con cháu mình thêm niềm tin dám chia sẻ, dám khóc thật, dám cười thật! Để sống hạnh phúc... thật!

Hôm đó tôi đã nói với Huy Khang, “Luôn tiện má Hai muốn dặn con: má Hai mong con sẽ không phải khóc nhiều lần trong đời, và nếu vì bất cứ lý do nào, bất cứ lúc nào từ nay về sau, khi con có chuyện gì muốn chia sẻ và cần khóc và nếu không có ai khóc với con, con hãy gọi má Hai, má Hai sẽ khóc với con nhe, Huy Khang. Luôn nhớ như vậy!”

“Dạ! má Hai…”

***
29 Tháng Tư, 2024
Anne Khánh Vân
 

Ý kiến bạn đọc
05/07/202417:13:34
Khách
Cảm ơn Tác Giả một bài viết hay.
06/06/202413:50:32
Khách
Chúng ta thuơng xót cho dân Ukraine nhưng cũng không quên dân Palestine đứng giữa hai lằn đạn tranh chấp giữa nhóm Hamas chống Do Thái dành độc lập cho Palestine và quân Do Thái, y hệt dân miền Nam ta xưa sống giữa hai lằn đạn CS và quốc gia. Chúng ta thuơng xót cho dân di tản tại đại lộ kinh hoàng, tại liên tỉnh lộ 7B di tản cao nguyên, cho 20 trẻ em bi. CS pháo kích vào truờng tiểu học Cai Lậy ngày xưa thì nay cũng đau lòng cho trại tị nạn và bệnh viện tại Gaza bi. Do Thái thả bom 2000 pounds tan tành. Hôm qua Do Thái cũng thả bom vào 1 truờng học do LHQ quản lý giết 45 trẻ em. Xua VC viện lý do pháo vào lính VNCH thì nay DT cũng viện lý do thả bom vào khủng bố. Dân Mỹ đóng thuế để làm bom đạn tiếp tế do Do Thái cũng mang nghiệp báo. Hậu quả của việc ủng hô Do Thái là Mỹ đẩy nhiều quốc gia Nam Mỹ như Venezuella, Brazil, Peru, Nicagragua, Chile, và các quốc gia Phi Châu như Nam Phi, Congo, ... vào vòng ảnh huởng của TQ. Mỹ bảo vệ DT vi phạm luật chiến tranh thì mất hơn 10 quốc gia và bị thế giới cô lập tại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Ngay cả các nuớc Âu châu như Tây Ban Nha, Na Uy, và Thụy Ðiển (?) nay cũng bỏ Mỹ để công nhận Palestine độc lập. Một số dân Mỹ nay đổ tiền vào các hội từ thiện quốc tế tại Ukraine và Gaza thay vì đổ tiền vào hội từ thiện Mỹ vì nỗi thống khổ ở đó quá lớn so với dân Mỹ. Ngày xưa các hội từ thiện và tôn giáo mất cơ hội cứu tế những nguời VN vuợt biên truớc 1980 để họ bị công an CS, hải tặc Thái, và Khmer Ðỏ tấn công cuớp bóc. Maĩ đến sau 1980 mới có các tàu Ðảo Ánh Sáng hay Cap Anamur giup, thì nay các tôn giáo thế giới vẫn chưa chịu đưa nguời vào Gaza cứu nguời. Ðợi 5 năm sau như tại VN hồi 1975 thì đã quá trễ. Các tôn giáo hội đoàn tại Mỹ nên ngưng xây chuà, nhà thờ, hay cứu vài chục nguời homeless tại Mỹ để chú tâm vào cứu vớt hàng triệu nguời đang sắp chết tại Gaza. Những năm truớc 1980 họ đã mất cơ hội cứu hàng triệu nguời tị nạn khỏi bị chết thì nay ta không thể để mất cơ hội cứu hàng triệu nguời tại Gaza duới làn bom đạn do Mỹ cung cấp.
03/06/202401:25:54
Khách
Theo lý thuyết nhà Phật thì những nguời lên tiếng ủng hộ kẻ làm điều ác hay trợ giúp kẻ làm điều ác đức thì cũng phạm ác nghiệp. Toà án quốc tế đã có lệnh bắt ông Netanyahu về tội phạm chống nhân loại nhưng hôm nay quốc hội Mỹ vẫn mời ông Netanyahu đến tuyên truyền hô hào thêm vũ khí để thả bom 2000 lbs vào các trại tị nạn. Quốc hội Mỹ có quá nhiều kẻ bất luơng cuồng tín ủng hộ việc làm của kẻ phạm tội chiến tranh và giúp kẻ bị ket tội hình sự giúp tranh cử tổng thống. Hiện nay chỉ có một số quốc gia không chấp nhận phán quyết cuả toà quốc tế về tội chiến tranh gồm có Nga, TQ, Bắc Hàn, Việt Nam, Mỹ, và Do Thái. Lý do là vì những quốc gia này không muốn bị truy tố để dễ dàng phạm tội ác. Ðiều nực cuời là Mỹ lại dùng chiêu bài tự do nhân quyền để lật đổ chánh phủ hay xâm lăng các nuớc nhỏ và Mỹ thuờng tố cáo các nuớc khác vi phạm luật chiến tranh. Vì dân Mỹ bị tuyên truyền một chiều cho Do Thái nhưng không cho nghe quan điểm hai bên, nên dân Mỹkhông biết Do Thái và Mỹ bị lên án phạm tội chiến tranh.
01/06/202422:58:39
Khách
"Hình như chúng ta có khuynh hướng phạm lỗi lầm vì chúng ta không tin luật nhân quả; chúng ta cũng không thấy ra sớm đủ rằng một việc làm tàn bạo hay sai trái hôm nay, có khi phải trả quả báo qua bao nhiêu kiếp vẫn chưa xong"
Chánh phủ các cuờng quốc không tin vào luật nhân quả nên phạm nhiều lỗi lầm với các nuớc nhuợc tiểu. Tuy không ai có khả năng trừng phạt các cuòng quốc, nhưng luật nhân quả từ tham sân si sẽ đưa đến hậu quả không tránh đuợc. Ngay bây giờ thì đảng Cộng Hoà muốn nổi dậy gây nội chiến, giết thẩm phán, và công tố sau khi Trump bị kết tội bởi 12 nguời Jurors từ dân chúng gồm nhiều khuynh huớng đảng phái chánh trị có cả nguời Cộng Hòa. Ðây là kết quả của tham sân si trong lòng chánh trị gia va` dân Mỹ, họ sẽ tự làm hại lẫn nhau và tàn sát nhau khi thế giới không có khả năng trừng phạt Mỹ . Sô Viết đã bị luật nhân quả làm tan rã 1991, nay vi` tham sân si đưa đến chiến tranh giữa Nga và Ukraine, hai thành viên của Sô viết. Họ sẽ tàn sát lẫn nhau vì cái nghiệp xưa kia áp đặt Cộng Sản vào 2 tỷ nguời trên thế giới.VN và Tàu TQ chỉ vì tham sân si gánh chịu hậu quả ô nhiễm nuớc, không khí, sông ngoì, biển, và tham nhũng trầm trọng. Không ai thóat khỏi luật nhân quả.
Trong hai chiến tranh Ukraine và Gaza, bom dạn của Mỹ làm 35 ngàn dân thiệt mạng, tất cả các bệnh viện bị đánh sập, truờng đại học tại Gaza bị san bằng, trại tị nạn thuờng xuyên bị bom, nhân viên Liên Hiệp Quốc và cờ quan từ thiện bị không kích chết, dân chúng lâm nạn đói trong khi đó bom đạn Nga giết hơn 10 ngàn thuờng dân, bệnh viện và đại học Ukraine không bị đánh sập, dân Ukraine không bị nạn đói, Ukraine xuất cảng ngũ cốc qua Âu Châu. Như vậy thì bom đạn Mỹ cung cấp gây nhiều nghiệp báo hơn bom đạn của Nga.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,198
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Nhạc sĩ Cung Tiến