Hôm nay,  

Chợ Trời Ở Mỹ

20/08/202405:00:00(Xem: 1730)

bo-sach-vvnm 

Tác giả Trần Đông Thành hiện sống ở Bắc California. Trước làm nghề Income Tax nay về hưu. Ông đã nhận giải Danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết dưới đây phác họa vài nét cảnh chợ trời ở Mỹ.

 

*

  

Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời.
 
Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê:
 
- Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? 
 
- Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao.
 
*
 
Bạn có thể coi bản đồ hoặc học lịch sử biết được màu sắc, màu cờ các dân tộc nhưng có nhiều sắc dân bạn chưa hề gặp mặt. Thì đây, khu vực Chợ Trời sẽ giúp mình quen biết nhận diện hình dáng, khuôn mặt và bạn có thể trực diện trò chuyện với dân tộc năm châu. Tứ hải giai huynh đệ.
 
Sáng sớm bãi đậu xe thứ tự xe đậu đầy, miễn phí. Người ở khắp nơi đến đó sắp hàng dài mua vé vô cửa. Có nơi 95 cent, nơi 1$ tùy địa phương. Khu sầm uất nơi vài mẫu, nơi vài sào đất.
 
Xã hội Chợ Trời đặc thù là khu thương mãi tự do. Ai đến đó bán buôn cũng được. Giá cả trên trời dưới đất. Hàng hóa tự do. Trả giá thoải mái. Vì vậy, người mua có thể mua được hàng rẻ nhưng cũng có thể mua lầm giá cao tới nóc.
 
Nơi đây quy tụ nhiều dân tộc thế giới như Mexico, France, India, Cambochia... Khách hàng chen chúc, người bán chỉ một cái bàn nhỏ phủ tờ nilon hay giấy báo sơ sài họ bày biện hổn độn, đủ thứ vật dụng nào bông tai, thuốc men, kềm búa, radio, bông hoa, hộp sơn, máy sưởi ấm, computer...
 
Chỗ này một chị quần áo tây phương gọn ghẻ, môi phấn đỏ tươi mặt sáng như trăng rằm, cầm tay một món hàng hỏi giá theo ngôn ngữ chợ trời, nói sao hiểu thì được. Dân tứ xứ mà!
 
- How much is this? Man! (Giá bao nhiêu vậy ông?)
 
Chủ sạp, vo môi, ca tụng hàng của minh:
 
- My flowers all are beautiful! Fresh! You can pay 10 dollars. Really. You cannot find them anywhere! You are lucky! (Bông hoa của tôi đẹp lắm. Rất tươi. Bà có thể trả 10 đồng. Đúng vậy. Bà không thể tìm mua chúng ở nơi khác. Bà rất may đó.)
 
Rồi bắt tay khách hàng lấy lòng khách.
 
- Cheap! Cheap! Hi… hi. (Rẻ! Rẻ lắm!)
 
Khách hàng hàng mặc cả:
 
- Two dollars. OK? (Hai đồng được không?)
 
Hắn quéo môi chử O méo xẹo:
 
- Tomorrow! (Ngày mai)
 
Đó là cách từ chối khéo như câu chuyện ngụ ngôn “Mai ăn khỏi trả tiền” của người Việt mình vậy. 
 
Trải tấm nhựa láng giản dị quảng cáo hàng bán rẻ “Everything must go! Cheap! Cheap! Tomorow don’t have it. Guarantee!” (Mọi thứ phải bán hết! Rẻ! Rẻ! Ngày mai không còn nữa. Bảo đảm!)
 
Nơi đây bố trí như một thành phố thương mại. Kiến trúc đường xá bằng những hàng dọc. Ngôn ngữ Việt, Tàu, Miên, Lào... kêu loa ầm ĩ!
 
Ngập người qua lại, ở xa trông như các tầng lớp sóng biển ùa tới, khi động, lúc thì vơi. Thật là một đô thị ồn ào và náo nhiệt. Thanh thiên bạch nhật. Nắng không mái che. Mưa không chỗ đục.
 
Cười nói rao hàng nghe điếc tai. Ông già bà cả đi xe đẩy, trẻ con cười toe toét, cô cậu lựa hàng trả giá ỏm tỏi để mua được hàng rẻ hoặc chủ buôn nói giá cao để được lợi. Đầy đủ ngôn ngữ Tàu, Phi, Miên, Anh, Pháp...Người mặc ríp (váy), kẻ quần áo Tây, áo thun quần đùi; người mình trần trùi trụi.         
 
Các gian hàng san sát nhau. Hàng bán khác nhau, mới cũ lẫn lộn. Khu quần áo triển lãm đủ kiểu, đủ hạng, đủ giá.
 
Từ khi có mặt người tỵ nạn, họ ra bán trên các sạp rau cải, bày hoa quả như cà pháo, dấp cá, ổi, táo, nho, thơm, xoài, dưa hấu, mít..
 
Đặc biệt hàng bán nón treo lủng lẳng các dây nón thòng xuống đất, từng xâu Beret đủ màu, mũ lưởi trai, nón phi công, nón cao bồi và đặc trưng nón lá Việt Nam từng xấp một.
 
Quầy sang trọng bán nữ trang trưng bày “cả rổ” toàn đồ giả, rẻ sìn. Son phấn lòe loẹt. Viết chì vẽ chân mày bay bướm. Người bày ra bàn ghế, xe máy, dao kéo, giường ván, nệm cũ có cái lốm đốm tì dấu đen đúa rất là dơ bẩn, vậy mà cũng có người mua.
 
Tại đây bạn có thể mua được hàng mà không thể mua trong tiệm. Cũng có món hàng bạn mua 5 hay 10 đồng mà giá ở tiệm lên đến 100, 200. May rủi!
 
Có hạng người buôn bán vì sinh kế. Có người rất sang trọng, giàu có, ra bán là để mua vui, giết thì giờ. Kẻ đi chợ trời như đi du lịch. Giải trí chớ không mục đich sắm đồ. Cần gì thì cứ tới đây “lục lạo” bạn sẽ được như ý muốn.
 
Đang đi thì có tiếng còi tu-huýt của security rượt theo một thanh niên chạy bán sống bán chết.
 
Người đi đường nói:
 
- Cướp giựt đồ!
 
Bạn tôi nhăn mặt bất mãn.
 
- Xứ Mỹ văn minh mà cũng có nạn cướp! Gớm!
 
 
Trần Đông Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 409,800
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Để cục pin mới vô, chỉnh lại, cái đồng hồ tik tok tik tok đều đặn. Lần đầu gặp nhau, khi Cô Ba đi làm về. Dựng chiếc Yamaha Dame màu xanh cây trong sân, bước vô cửa, thấy anh ngồi trong phòng khách đang nói chuyện với anh rể. Phép lịch sự, gật đầu chào một cái rồi te te thẳng vô phòng trong, thay đồ. Thời gian đó cô không ưa gì người Mỹ. Sau đó thì anh tới nhà gặp anh rể, gần như mỗi buổi chiều, có khi còn cầm bó bông Lay-ơn màu đỏ, đưa tặng cô, mà không nói tiếng nào. Ngó những cành bông đã nở bung ra, không còn cái nụ chúm chím nào hết mà thấy mắc cười. Má cô nói -Chàng Mỹ thiệt thà bị mấy cô bán bông trong mấy cái ki-ốt dụ bán những bó bông sắp sửa tàn rồi
Nhạc sĩ Cung Tiến