Hôm nay,  

Có Phải Là Số Phận

06/03/202312:41:00(Xem: 3155)

  

Tác giả qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018, ông đã nhận giải đặc biệt về Huế Tết Mậu Thân với bài viết về một gia đình bên cầu Bạch Hổ Huế, có người cha toàn thân bị cộng sản chôn sống.

 

*

 

Tôi xin kể cho các bạn chuyện hai người bạn của tôi, họ có tính cách và tư duy trái ngược nhau. Tuy cả hai đều học cùng lớp với tôi, nhưng họ lại không chơi thân với nhau.

 

Vừa qua Mỹ, tôi vào trường học tiếng Anh và học nghề điện tử. Ở trường tôi quen nhiều bạn bè, trong đó có hai bạn A và B. (Tôi xin giấu tên).

 

Bạn A qua Mỹ theo diện HO, cùng chuyến bay với tôi.

 

Có nhiều bạn học cho là A hay phô trương, nhưng với tôi, A không có vẻ gì như thế. A học giỏi so với bạn cùng lớp vì A đã tốt nghiệp đại học ở Việt Nam và có bằng TOEFL điểm cao nên nói tiếng Anh lưu loát. Thỉnh thoảng bạn ấy được thầy nhờ thông dịch cho các học sinh Việt Nam mới qua, không theo kịp bài giảng tiếng Anh của thầy. Trong lớp, A hay giơ tay hỏi và phát biểu ý kiến của mình khiến vài bạn khó chịu. Họ nói với nhau là A khoe mẽ giỏi tiếng Anh. Giờ nghỉ, A chủ động đi bắt chuyện làm quen với học sinh các lớp khác và những học sinh người nước ngoài.

 

Có lần sau giờ học, bọn con trai chúng tôi rủ nhau mua đồ ăn, ra biển chơi. Ăn xong, A nói:

 

- Tụi mình xuống tắm biển đi.

 

Chúng tôi, ai cũng lắc đầu quầy quậy vì nước biển ở đây rất lạnh, không như biển nơi khác hay ở Việt Nam. A nói tiếp:

 

- Mình phải tắm một lần cho biết cảm giác tắm biển lạnh như thế nào chứ.

 

A cởi áo quần, nhảy ào xuống biển. Vừa bơi lội A vừa ngoắt tay, kêu gọi chúng tôi xuống tắm. Chúng tôi chỉ dám thử cảm giác mạnh nửa vời là xắn quần lội xuống nước ngang đầu gối thôi. Vậy mà chúng tôi vẫn bị sóng biển làm cho ướt lạnh. Lên bờ, áo quần đứa nào cũng bị ướt, chỉ có A là khô ráo vì A đã cởi áo quần bỏ trên bờ trước khi xuống nước.

 

Một hôm A nói với tôi:

 

- Tao thích kinh doanh nên tao sẽ đi tìm cơ hội.

 

Bạn ấy chào tạm biệt tôi và bỏ học từ đó.

 

A và bạn gái mở dịch vụ gửi tiền và hàng hoá về Việt Nam. Khi ấy chưa có nhiều cơ sở tư nhân kinh doanh gửi tiền hàng như bây giờ. Khởi đầu, A và bạn gái không có tiền mướn nhân viên nên nhờ anh em, người nhà ra phụ giúp. Họ mau chóng thành công và mở thêm nhiều chi nhánh ở những nơi có nhiều người Việt sinh sống, nên A phải mướn thêm nhân viên. A có mời tôi ra làm việc cho A, nhưng tôi từ chối vì tôi thích công việc kỹ thuật điện tử hơn.

 

Chỉ một thời gian ngắn, A và bạn gái trở nên giàu có, tuy vậy họ vẫn không quên bạn bè. Ngày tổ chức đám cưới, A mời tất cả bạn bè xưa cùng đến tham dự. Dự đám cưới tôi mới biết, bạn bè mới của A toàn những đại gia, qua Mỹ đã lâu. A đã bước chân vào môi trường của giới nhà giàu tại Mỹ. A dám nghĩ và đã nỗ lực thực hiện được câu bạn ấy nói với tôi, “Có ngày, tao sẽ làm chủ và giàu có”.

 

Bạn B qua Mỹ trước tôi vài tháng và đã sắm xe hơi rồi. Bạn ấy lúc nào cũng ăn mặc lịch sự, chỉnh tề, xách cặp táp sang trọng như giám đốc vậy. B nói:

 

- Ở Việt Nam tao làm việc thành công thì tao cũng sẽ thành công ở đây.

 

Tôi biết tính B hơi “nổ” một chút, nhưng tốt bụng. Khi tôi chưa có xe, B thường cho tôi quá giang đến trường và thỉnh thoảng chở tôi đi chơi.

 

Xe của B bị hư bộ phận làm tan sương mù, nên sáng sớm chạy đến trường, cứ năm ba phút tôi lại phải lấy khăn lau hơi nước bên trong kính xe. Trong xe của B, chỗ ngồi phía trước cũng như phía sau chất đầy sách vở tiếng Anh, sau cốp xe lúc nào cũng có mấy thùng mì gói và nước uống.

 

Một hôm trên đường đến trường, tôi tò mò lật xem các quyển sách để dưới sàn xe mà tôi đang đặt chân lên chúng. Lật đến cuốn dưới đáy sàn, tôi giật mình kinh hoảng khi thấy mặt đường bên dưới lướt qua rào rào. Tôi vội lấy sách che đậy lỗ thủng lớn hơn bàn tay ở sàn xe lại như trước, vì sợ chân mình lọt xuống đường.

 

Một lần B chở tôi đi chơi các thành phố lân cận. Đi chơi mấy tiếng đồng hồ, khi về thì bị lạc đường. B tấp xe vào lề, lấy tấm bản đồ quận hạt, to gần bằng nửa cái bàn ra xem, rồi chạy tiếp (Khi ấy chưa có Hệ thống Định vị hay Google maps). Chạy hết đường cao tốc này qua cao tốc khác mà vẫn chưa thấy đường về nhà. B lại mở bản đồ ra xem, rồi lái xe như phát rồ. Tôi nói:

 

- Sao mày không vào cây xăng hay gặp người dân hỏi đường.

 

B lắc đầu:

- Không cần, tao rành mà.

 

B lái xe chạy mải miết đến gần hết xăng, phải vào cây xăng đổ thêm. Tôi giục:

- Mày vào hỏi đường xem sao.

 

Thấy B và anh nhân viên cây xăng người Mỹ vừa nói vừa quơ tay lia lịa có vẻ như không hiểu nhau, nên tôi cầm tấm bản đồ đi vào. Tôi trải tấm bản đồ ra, chỉ vào thành phố nơi chúng tôi sống và hỏi anh nhân viên bán xăng:

 

- Tụi tao muốn đi đến nơi đây, hiện tụi tao đang ở đâu trên bản đồ này?

 

Anh nhân viên nhìn bản đồ một hồi, rồi chỉ ngón tay ra khỏi ngoài tấm bản đồ và nói:

- Tụi mày đang ở ngoài tấm bản đồ này rồi.

 

Sau đó, anh nhân viên cây xăng chỉ đường cho chúng tôi về. Trên đường về, tôi nói huyên thuyên đủ thứ chuyện để B bớt “quê độ”. B nói:

- Ơ! Mày đang đánh trống lảng à.

 

B hay nói với vẻ tự đại, “Tao sẽ nổi tiếng khi các đại gia công nghệ Mỹ mời tao vào làm việc cho họ”. Tuy B học lấy được nhiều bằng cấp, nhưng đến bây giờ, hơn hai mươi năm nộp đơn xin việc và chờ đợi mà vẫn chưa có một đại công ty công nghệ nào mướn bạn ấy. B cho là thời cơ chưa tới, nên làm tạm những công việc không phụ hợp với bằng cấp và B vẫn hy vọng có ngày, các đại gia công nghệ sẽ thấy được tài năng “xuất chúng” của mình.

 

Còn phần tôi, khi ở Việt Nam, tôi luôn muốn vượt trội hơn các bạn cùng trang lứa và thích được nổi tiếng khắp xóm làng. Hàng ngày, sau những giờ làm ruộng rẫy, tôi chịu khó đọc sách. Tôi đọc nhiều sách chỉ để hiểu biết hơn so với chúng bạn và muốn chứng tỏ cho mọi người thấy tôi là xuất chúng, là nhà “bác vật” tinh thông mọi thứ trên trời dưới đất.

 

Như “ngựa non háu đá”, tôi đã thử tài với các bộ môn nghệ thuật như vẽ, làm thơ, viết văn, viết nhạc, đánh đàn. Tôi học làm mọi thứ không vì nghệ thuật mà chỉ mong được cái danh họa sĩ, thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, “đàn sĩ”.

 

Tôi xin vào đội văn nghệ xã, đánh đàn guitar được mấy lần trong các buổi biểu diễn của đội. Anh đội trưởng nói với tôi:

 

- Em qua diễn kịch đi.

 

Có thể, anh thấy tôi đàn không hòa chung với ban nhạc, nhưng không nói thẳng. Tôi hỏi:

 

- Anh thấy bản nhạc em sáng tác được không?

 

Anh ấy đáp:

- Có nửa bài coi được.

 

Từ “đàn sĩ, nhạc sĩ” tôi thành “kịch sĩ”. Qua nhận vai kịch, tôi chỉ toàn đóng vai phụ. Chờ hoài mà không được lên vai chính, tôi từ giã đội văn nghệ vì đội không biết trọng “nhân tài” gì hết.

 

Có lần tôi mua được một bức tranh chân dung vẽ bằng màu nước, không có tên tác giả. Tôi sắm các dụng cụ cọ, bút, giấy, màu, sơn để tập vẽ bằng cách họa lại bức tranh đó. Khuôn mặt của người đàn ông trên bức tranh tôi mua, đăm chiêu, toát lên vẻ uyên bác, còn khuôn mặt tôi vẽ thì nhăn nhó như đang đau bao tử. Tôi vẽ chồng lớp này lên lớp khác, cọ sát đến sờn nát mặt giấy mà vẫn không giống được.

Tôi chuyển qua vẽ trên vải. Tôi vẽ đi vẽ lại, vật lộn với bức tranh, màu nước dính loang lổ đầy người. Vậy mà bức tranh nào tôi vẽ ra cũng đau khổ, không vì bệnh này thì bị bệnh khác. Chán nản, tôi vất bỏ các bức tranh vào thùng rác.

 

Có đứa bạn đến nhà tôi chơi. Thấy bức tranh tôi mua và các vật dụng hội họa, nó tưởng lầm tôi vẽ nên nói:

- Mày vẽ đẹp quá mà giấu nghề nghe.

 

Tôi chưa kịp nói gì thì nó lại khen lấy khen để làm tôi không có cơ hội đính chính. Rồi không hiểu sao, chắc có lẽ để loè thằng bạn, tôi mỉm cười và chẳng nói gì như kiểu họa sĩ khiêm nhường.

 

Thế rồi tin đồn tôi là họa sĩ vang ra khắp xóm làng. Nhiều người mang hình ảnh đến nhờ họa lại, tôi từ chối bằng nhiều lý do. Từ chối không được, tôi trốn tránh như con nợ. Tôi lâm vào tình cảnh họa sĩ khiêm nhường khổ sở. Đúng là mình làm cho mình khốn đốn mà.

 

Thấy mình không có năng khiếu vẽ, tôi chuyển qua làm thơ, viết văn. Tôi mày mò viết được mấy đoản văn và làm được vài bài thơ tình cảm sướt mướt. Tôi đọc cho bạn bè nghe, chúng khen quá trời trời. Những lời khen làm tôi híp mắt, sướng ngây ngất đến mấy ngày. Tôi lập đi lập lại từng lời khen của các bạn trong đầu đến thuộc lòng.

 

Trong các buổi tụ tập đông người, tôi gợi ý với bạn:

 

- Trong những bài thơ của tao, mày thấy câu nào hay nhất?

 

Nếu nó khen thì tốt, tôi có cớ để lôi các bài thơ ra đọc. Nếu nó không nói gì, tôi cũng lấy các bài thơ ra đọc để mọi người biết được tài làm thơ của tôi hay ho như thế nào.

 

Có vài bạn xin chép lại các đoạn văn, bài thơ, tôi không cho vì sợ chúng ăn cắp bản quyền. Tôi gửi mấy bài thơ lên toà báo và chờ đợi ngày cả nước được đọc những áng thơ bất hủ của mình. Ngày vinh quang của tôi đến rồi.

 

Tôi chờ hoài, mua bao đợt báo mà không thấy các bài thơ của tôi đâu. Những bài thơ của tôi trốn trong tủ đến lên mốc lên meo. Cuối cùng tôi chấp nhận, mình cũng không có khiếu về thơ văn. Niềm hứng thú văn chương và thi ca của tôi vụt “tắt lịm như ngọn đèn trước cơn bão tố”.

 

Dù làm nhiều việc kết quả không được như mong muốn, nhưng nếu buông xuôi, không làm gì thì tôi sống không vui. Tôi dặn lòng, đừng để niềm tin đạt được danh hiệu cỡ “trạng nguyên” của mình bị sứt mẻ.

 

Qua đến Mỹ, tôi chợt nhận ra, chỉ cần được sống bình thường thôi là đã hạnh phúc lắm rồi. Hơi đâu mà phiền muộn vì hư danh không đạt được trong cuộc sống. Các danh xưng chỉ nhất thời, trong khi đời còn những điều khác có giá trị hơn chúng nhiều.

 

Từ đó tôi biết, thói hám danh chỉ như đuổi hình bắt bóng nên đã làm nhiều cách để thuần bỏ nó. Nói thì dễ, nhưng bệnh hám danh khó chữa trị lắm các bạn ạ, loại bỏ nó không phải một sớm một chiều mà được. Thói háo danh luôn chờ đợi cơ hội để quấy rối cuộc đời mình, dù trẻ hay già. Cũng may, não của tôi chưa xác lập háo danh thành một thói quen xấu. Nếu bạn nào lỡ mắc phải thói háo danh hão như tôi thì xin chúc thành công trong việc từ bỏ nó nhé.

 

Bây giờ, tôi sống thực tế hơn nhiều, không quá tự tin hay quá tự phụ. Tôi hài lòng làm một nhân viên kỹ thuật trong một công ty tư nhân và hạnh phúc với những gì mình đang có. Mỗi người có một mục đích riêng trong cuộc sống. So sánh với hai bạn tôi, tôi không đạt kết quả to lớn thấy rõ như bạn A và cũng không lâm vào cảnh dở khóc dở cười như bạn B. Bản tính có thể thay đổi, nhưng một số người không thay đổi hoàn toàn, vì vậy cuộc đời chúng tôi không giống nhau.

 

Có phải là số phận hay vì bản tính, tư duy và cách sống mà từ đó cuộc đời mỗi người đi đến thất bại hoặc thành công khác nhau.

 

Phước An Thy

Ý kiến bạn đọc
08/03/202318:20:35
Khách
Những "bịnh" chung của đàn ông rất thích hợp cho xã hội Hoa Kỳ - quốc gia [cực] siêu tư bản đòi hỏi phải năng động [dynamic], hiếu thắng [aggressive] và mồm mép/giao tiếp [communicative].

Khả năng chuyên môn có cao và giỏi nhưng nếu không hội đủ những yếu tố ắt có và đủ trên thì sẽ bị thiệt thòi nhiều và nặng cho cuộc sống kinh tế cá nhân/gia đình nếu có.

Vậy sống ở Mỹ, đàn ông [hoặc đàn bà] đều phải tranh đấu cật lực [tự quảng cáo bằng cách khoe khoang và chứng tỏ hết tài năng có được] để tiến [cao] lên và để giữ vững Hoa Kỳ luôn ở địa vị đệ nhất siêu cường.
08/03/202313:21:52
Khách
Rất thích bài viết này. Tôi nhìn thấy những "bịnh" chung của đàn ông trong đó . Mong được đọc thêm nhiều bài viết nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 554,374
Kể từ những năm tháng đầu tiên, khi Phật giáo truyền vào Việt Nam, các chùa đã tổ chức Lễ Vu Lan. Ngày nay, Lễ Vu Lan không còn đơn thuần chỉ có ý nghĩa tôn giáo thiêng liêng ca ngợi lòng hiếu thảo đối với mẹ không thôi mà đã trở thành "lễ hội" mang tính cách nhân văn nói lên lòng hiếu kính của tất cả mọi người đối với cả mẹ lẫn cha hiện tiền, hay ông bà cha mẹ đã quá vãng nhiều đời nhiều kiếp. Lòng trân trọng hiếu kính mẹ cha, phụng thờ tổ tiên ông bà, chính là sợi dây liên kết giữa người còn kẻ mất, là truyền thống cao đẹp nêu cao tình người của dân tộc Việt.”
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ từ 2001 và liên tục góp bài. Sau nhiều năm tham gia ban tuyển chọn, từ 2018, tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân chính thức trở thành Trưởng Ban Tuyển Chọn Viết Về Nước Mỹ.
Ba tôi qua đời năm Mậu Thân 1968, còn trẻ lắm, em Út thứ 9 trong nhà nói: “em không nhớ mặt Ba”, tội nghiệp, lúc đó nó mới có ba tuổi; Má tôi vừa bỏ chúng tôi đầu xuân năm 2023, thượng thọ gần bách tuế. Từ thuở nhỏ, chúng tôi lớn lên không có Ông Bà cả hai bên Nội, Ngoại. Ông Bà Ngoại với con cái sống cuộc đời thương hồ, trôi nổi nước lớn nước ròng, buôn bán theo mùa ở Châu Đốc. Rồi Ông Bà lần lượt qua đời khi tuổi không thọ lắm. Má tôi có chồng, thì Má chồng đã mất, Ba chồng bồng ẳm hai cháu Nội mới chập chửng biết đi được vài lần thì gia đình tôi dọn nhà lên Sài Gòn. Rồi ông Nội qua đời. Nghe Ba và Cô Hai kể, Ông Nội nằm đọc báo ngủ trưa, ngủ luôn giấc ngàn thu, rời hơi thở nhẹ tênh, nhà quê gọi là đứt mạch máu. Năm đó, Ông vừa qua tuổi 50. Má kể, tôi cũng được Ông Nội bồng vài lần lúc mấy tháng,
Hằng ngày, một mình, tôi vẫn tiếp tục lặng ngắm bức tranh thêu hai con hạc trắng như ngày nào khi hai chúng tôi bên nhau. Con chim trống luôn luôn là hình ảnh oai phong - khỏe mạnh của chồng tôi những ngày đầu chúng tôi quen nhau cách đây hơn 50 năm. Thương làm sao, lúc về già, chồng tôi y như con hạc trống già vẫn ráng vươn cao cổ che chở con chim mái ướt sũng đứng nép mình cạnh bên. Thương, nhớ… những ngày hạnh phúc có nhau nhưng tôi không bị dày vò , xót xa vì tôi đã sống trọn vẹn và làm đầy đủ bổn phận của một người vợ, người mẹ …Sinh - Lão - Bệnh - Tử là quy luật nghiệt ngã, đời người rồi ai cũng phải đi tới các trải nghiệm đó. Chấp nhận và có chuẩn bị chu đáo vẫn hơn là né tránh!?
Tôi đã hứa với Văn, ngày thứ sáu và thứ bảy của tuần lễ nghỉ phép, tôi sẽ đến nhà làm giúp cho Văn cái giàn mướp. Sau khi mở cửa cho tôi vào nhà, Văn pha cho tôi ly cà phê rồi đến ngồi trên cái ghế xoay đối diện với máy điện toán, tiếp tục đọc trang mạng. Văn thường nói với bạn bè: Đọc và viết là một phương cách giúp cho não bộ hoạt động và thư giãn tâm trí, một món ăn tinh thần tốt lành, không tốn kém. Đọc xong bản tin đặc biệt và bài bình luận thời sự trên trang mạng, Văn đứng dậy, đi đến phòng ăn sửa soạn ăn sáng rồi cùng tôi làm cho xong cái giàn mướp thì điện thoại reo. Văn vừa nói câu hello thì đã nghe giọng nói lớn tiếng từ điện thoại.
Lời tác giả: Gặp Nina Hòa Bình trên trang mạng! Nina nhắc nhở nhè nhẹ, lâu quá, không thấy tác giả Nguyễn Trung Tây trên trang “Viết Về Nước Mỹ.” Khi đó mới chợt nhớ ra, từ hồi Covid ghé vào, tàn phá ngôi làng toàn cầu, tác giả hãi đoàn quân Covid quá! Bởi thế, quân ta trốn trong phòng, không xuất hiện. Thật ra, tháng 6 năm 2016, tác giả đã rời Úc Châu, tu học tại Philippines. Tháng 10, 2020, tác giả bay về lại San Jose, California, trốn Covid. Tháng 5, 2022 tác giả bay về Philippines, lãnh văn bằng Tiến Sĩ Truyền Giáo tại Divine Word Institute of Mission Studies, nối kết với University of Saint Tomas.
Buổi sáng vào hãng, sau khi chào hỏi và cụng ngực với những người làm chung. Mình bị tay đốc công gọi vào văn phòng giũa: ”Tại sao mầy không coi ngó tụi nó, tuần rồi mấy lô hàng bị sai, ông chủ đang giận dữ”. Mình tức chết đi được, phận sự của mình là cung cấp phụ tùng linh kiện, còn việc khâu kỹ thuật là của thằng James, sao việc gì nó cũng đổ hết cho mình? Mà đâu chỉ mỗi việc này, còn nhiều chuyện bị áp lực nặng khác nữa. Mình làm lâu năm, kinh nghiệm tốt, được khen “good job” vậy mà bị tay đốc công đì, đối xử bất công. Những người làm cùng việc ở các tổ khác đã tăng lương hai lần rồi mà mình thì không được, đã thế cứ nhè những việc khó thì giao cho mình. Mình xin đổi qua tổ khác nó cũng không cho chuyển… Giận lắm nhưng nhịn thì tức, nhiều lúc muốn chơi nó cho bỏ ghét!
Có người bảo rằng tiếng chuông điện thoại là “niềm vui của tuổi trẻ và nguồn an ủi cho tuổi già” Đối với bà Thoa, tiếng chuông điện thoại còn là tiếng gọi của tình yêu khi còn trẻ, là tiếng lòng thương mến khi làm mẹ, là tiếng gọi mong chờ và là liều thuốc an thần khi nằm trong viện dưỡng lão. Nhớ thuở xa xưa, lúc tuổi xuân thì, bà có nhan sắc lại con nhà danh giá, nhiều thanh niên con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai theo đuổi, nhưng không anh nào lọt vào vòng “chung kết”. Cuối cùng bà “phải lòng” anh phó quận vì tiếng chuông điện thoại.
Tác giả Võ Phú dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục viết lại từ 2016 và nhận giải Danh Dự Viết về nước Mỹ từ 2019. Sau đây là bài viết mới nhất.
Cơn hồng thủy ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm đã xô đẩy hàng triệu người Việt ra khỏi quê hương và trôi dạt khắp nơi trên thế giới mà đông nhất là ở Hoa Kỳ. Thời đó, hễ thấy ai đầu đen thì người ta chạy riết lại nhìn mặt xem có phải là người Việt không. Nếu phải thì người ta ôm chầm lấy nhau. Có người nước mắt ràn rụa, giọt ngắn giọt dài, vừa mừng vừa tủi vì “ tha hương ngộ cố tri” mà. Dần dà số người Việt định cư ở Mỹ ngày càng đông thì hình ảnh thân thương kia cũng phai nhạt dần khi người ta đã trở thành công dân Mỹ, hội nhập vào đời sống xã hội Mỹ, lúc nào cũng gấp gáp lo chuyện cơm áo, gạo tiền, không còn thì giờ để quan tâm, dòm ngó tới hàng xóm láng giềng, kể cả bà con thân thuộc, nhất là những người ở xa. Hình ảnh một người Mỹ ngồi trên xe bus đi đến chỗ làm, vừa uống tách cà phê, vừa đọc báo cho thấy là thì giờ ở Mỹ rất hiếm hoi và quý báu. Có ý kiến cho rằng người Mỹ rất lạnh lùng, đèn nhà ai nấy sáng. Điều này không đúng. Giá trị Mỹ nằm ngay ở chính tên gọi của nó
Nhạc sĩ Cung Tiến