Hôm nay,  

Cộng đồng người Việt tại Đông Nam Virginia

18/05/202212:18:00(Xem: 3484)

 

Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016 , Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19 và 21.

*


Người Việt tại vùng Peninsula:

Không có con số thống kê chính thức về số người Việt sinh sống tại vùng bán đảo ở phía Đông Nam của tiểu bang Virginia (được gọi là Peninsula), nơi tôi sinh sống bao gồm các thành phố Hampton, Newport News, Poquoson, Williamsburg và một phần của James City County và York County. Dựa theo dữ kiện của cơ quan điều tra dân số Hoa Kỳ (US Census Bureau) thì vào năm 2019 có khoảng 78,317 người gốc Việt sinh sống tại tiểu bang Virginia. Theo tôi thì đa số tập trung ở vùng phía bắc Virginia giáp ranh với thủ đô Washington DC.

Năm 2009 tôi có viết một bài về cộng đồng Việt Nam tại vùng này mà khi ấy tôi phỏng đoán có khoảng 2,000 người gốc Việt sinh sống tại đây. Tôi đưa ra con số này dựa theo cả trực giác lẫn áp dụng phương pháp khoa học để tính toán, đó là căn cứ vào sổ niên giám điện thoại (yellow book) để tính. Ngày nay số người còn giữ điện thoại dây ở nhà và đăng ký tên vô sổ niên giám điện thoại rất ít nên rất tiếc phương pháp này không còn áp dụng được nữa. Sau đây là những gì tôi đã làm khi đó để áng chừng dân số của cộng đồng người Việt tại đây vào năm 2009.

Trước hết căn cứ vào số lượng người mang họ Nguyễn (họ phổ biến nhất của người Việt) ở trong vùng rồi suy luận ra, ta có thể phỏng đoán được số lượng người Việt. Theo tin từ trang Wikipedia tiếng Việt thì tôi được biết theo thống kê năm 2005 ở Việt Nam người họ Nguyễn chiếm 38% dân số. Dĩ nhiên con số 38% này không phải là con số tuyệt đối có thể đại diện cho bất cứ tập thể nào. Nghĩa là không phải ở bất cứ nhóm người nào người họ Nguyễn cũng chiếm tỷ lệ 38%. Do đó trong ước tính của mình tôi áp dụng con số khiêm nhường hơn một chút đó là chỉ khoảng 1/3 người Việt mang họ Nguyễn.

Theo quyển niên giám điện thoại vùng Peninsula năm 2009, có tất cả khoảng 90 gia đình mang họ Nguyễn đăng ký điện thoại. Như vậy ta có thể nói chúng ta có khoảng 360 gia đình người Việt nam tại vùng này. Nếu tính một gia đình tiêu biểu gồm 4 người (vợ chồng và hai con) thì chúng ta sẽ có sấp sỉ 1,440 người Việt. Tuy nhiên theo truyền thống Việt Nam, các gia đình anh chị em có thể sống quây quần với nhau hoặc trong gia đình còn thế hệ ông bà thì ta có thể tính trung bình một gia đình Việt Nam có 5 người. Như thế con số người Việt tại vùng Peninsula này có thể dao động từ 1,440 đến 1,810 người. Con số này khá gần với con số 2,000 người mà tôi phỏng đoán theo trực giác. Đây chỉ là con số tôi phỏng đoán dựa theo niên giám điện thoại năm 2009.

Để phỏng đoán số người gốc Việt tại vùng Peninsula vào thời điểm hiện tại, tôi áp dụng cùng một mức tăng trưởng dân số cho cả tiểu bang Virginia trong cùng quãng thời gian đó. Theo dữ kiện của văn phòng điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2005 thì số người gốc Việt ở tiểu bang Virginia là 48,745. Nếu so sánh với con số 78,317 người Việt theo dữ kiện năm 2019 thì mức tăng trưởng dân số của người Việt tại đây là khoảng 60%. Như vậy con số người Việt ở vùng Peninsula này vào thời điểm hiện tại có thể vào khoảng 2,304 đến 2,896 người.

Người Việt định cư tại vùng này đến từ nhiều đợt. Đợt đầu tiên của những người may mắn rời quê hương từ năm 1975 định cư tại vùng này có lẽ chỉ khoảng vài chục người. Đợt thứ hai từ những thuyền nhân (boat people) bỏ xứ ra đi những năm cuối của thập niên 70 sang thập niên 80 được bảo trợ về đây cũng khá đông. Đợt thứ ba có lẽ đông nhất đi theo diện đoàn tụ gia đình (ODP, trong đó có gia đình tôi), con lai, cựu tù nhân chính trị (HO, trong đó có gia đình vợ tôi), đổ về vùng này ào ạt vào những năm đầu thập niên 90 cho đến khi chương trình này chấm dứt sau đó sau đó vài năm. Từ đó đến nay người Việt về định cư tại vùng này theo các chương trình di dân bảo trợ theo hạn ngạch (quota) như hầu hết các sắc dân khác trên thế giới chứ không còn được ưu tiên theo quy chế tị nạn như những năm trước nữa. Phần lớn số người Việt qua thời gian sau đều theo diện vợ chồng hoặc hôn phu/thê bảo lãnh từ các Việt Kiều về nước mà không ít trong số đó là những đám cưới giả.

Đúng ra còn một thành phần nữa đó là những người qua Mỹ trước năm 75. Họ là vợ những người quân nhân, viên chức Mỹ theo chồng rời Việt Nam khi cuộc chiến chấm dứt. Cũng có thể họ là những người đi du học, tu nghiệp rồi ở lại. Dù sao thì số người của thành phần này tại đây rất nhỏ.

Bước đầu lập nghiệp:

Cho dù bỏ xứ ra đi theo hình thức nào thì họ đều có chung một điểm là cùng bỡ ngỡ trước một xứ sở xa lạ và phần lớn đều đặt chân đến đây với hai bàn tay trắng. Trừ những ai được gia đình bảo lãnh theo diện di dân sau này, được gia đình chuẩn bị chăm lo cho mọi thứ từ A đến Z, số còn lại đều phải trông chờ vào sự giúp đỡ của các cơ quan thiện nguyện. Trừ một số có sẵn kiến thức hoặc tay nghề, đa số người Việt bước đầu định cư tại Hoa Kỳ  đều thiếu một kỹ năng nghề nghiệp (skill) và khả năng Anh Văn. Để có thể hội nhập vào xã hội và có thể tự túc tại quê hương mới, họ phải chấp nhận làm những công việc đơn giản với đồng lương tối thiểu. Trước tiên phải kể đến các công việc chạy bàn, rửa chén bát hoặc phụ bếp tại các nhà hàng Tàu trong vùng. Trong những năm 1990, các chuỗi nhà hàng Tàu tại Hampton, Newport News đều có một số lượng nhân viên Việt Nam đông đảo. Công việc chạy bàn (waiter, waitress) đa số do các bạn trẻ còn đi học làm part time để phụ giúp thêm gia đình. So với việc rửa chén bát thì chạy bàn có thu nhập cao hơn do có cơ hội kiếm được tiền tip từ khách hàng.

Vào thời ấy, một buổi tối của ngày weekend họ có thể kiếm được $40, $50 tiền tip. Đây là một con số khá lớn nếu so với mức lương tối thiểu $4.25 một giờ của tôi vào lúc ấy. Khi đợt di dân theo các gia đình cựu sĩ quan (HO) và các gia đình có con lai đổ về vùng này ào ạt trong những năm đầu thập niên 90 thì các nhà hàng không thể đáp ứng đủ công việc làm cho họ. Các hãng xưởng nhỏ trong vùng chính là nơi đã giúp đỡ rất nhiều cho người Việt tị nạn trong bước đầu chập chững trên miền đất hứa. Cũng cần phải nói rõ thêm rằng sự đóng góp của người Việt tị nạn vào doanh thu của các hãng này cũng không phải là nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta không nên bàn về vấn đề này trên nguyên tắc sòng phẳng thuận mua vừa bán. Dù sao chúng ta vẫn cần phải trân trọng sự giúp đỡ lúc ban đầu của các vị ân nhân trong những hãng xưởng này.



Một trong số đó là hãng hải sản Graham and Rollins Inc. tại downtown Hampton, nơi tôi làm mấy năm đầu định cư tại đây. Hầu hết những người Việt Nam mới đặt chân qua đây vào thời điểm đó đều không có khả năng để cạnh tranh trong thị trường nghề nghiệp với dân bản xứ. Chính hãng này đã mướn rất nhiều người trong số họ để làm việc cho chi nhánh của hãng bên một bến sông tại Hampton. Vào lúc cao điểm của mùa hè, số người Việt Nam làm tại đây có thể lên đến trên 40-50 người. Họ có thể là những người đã gần đến tuổi về hưu mà có đôi khi cả đời ở Việt Nam chưa chắc đã phải ra ngoài làm việc. Họ cũng có thể là những em học sinh trung học nghỉ hè làm thêm giúp đỡ gia đình. Họ còn là những sinh viên như tôi sau giờ học ghé vào làm thêm kiếm tiền nuôi sống bản thân chờ ngày đại đăng khoa. Và còn có người như chị tôi đã từng làm nha sĩ, có phòng mạch riêng tại Sài Gòn. Giờ đây, ban ngày lo dồi mài kinh sử chờ ngày ứng thí để hy vọng được theo đuổi lại nghề xưa, trong khi đêm đến lại chăm chỉ lội bộ dưới trời đông giá đến hãng ngồi gỡ thịt từng con cua để kiếm tiền đóng học phí.

Theo sự xác nhận của phó giám đốc James Casey, với sự chăm chỉ làm việc, có người Việt Nam đã kiếm được trên $30,000 một năm. Mức lương này tương đương với mức lương kỹ sư mới ra trường của thời đó (1990). Phần lớn số người Việt Nam làm việc tại hãng cua này, trong đó có gia đình tôi, ở khu Old Towne Apartments gần tòa thị chính Hampton. Khu apartment này thời đó được sự giúp đỡ của sở Phát triển Đô Thị và Nhà Đất Hampton (City of Hampton Housing and Urban Development) nên đã thu hút rất đông các gia đình Việt Nam mới định cư. Khi ấy chúng tôi vẫn gọi đùa khu đó là một little Vietnam của vùng này.

Đối với những người định cư được một thời gian, có khả năng theo học các khóa dạy nghề thì họ tập trung làm việc có chuyên môn cao hơn tại những xưởng cơ khí (machine shop) hay các hãng xưởng lớn như hãng đóng tàu lớn nhất nước Mỹ Newport News Shipbuilding, các hãng ngoại quốc lớn như Siemens, Valeo, Liebherr, hay Canon. Dĩ nhiên không thể bỏ qua cơ quan NASA của chính phủ.

Thành công nơi miền đất hứa:

Chỉ sau một thời gian ngắn với bản chất thông minh cần cù phần lớn người Việt tại đây đều đã thành công và có một cuộc sống ổn định không thua kém gì người dân bản xứ. Giờ đây có thể  nói là hầu hết người Việt tại đây đã làm chủ căn nhà riêng của mình. Họ đã lần lượt từ bỏ những công việc tạm bợ với đồng lương tối thiểu để kiếm những công việc ổn định hơn với đầy đủ quyền lợi về bảo hiểm cũng như quỹ hưu trí. Theo thời gian chúng ta không còn thấy người Việt Nam làm những công việc chạy bàn hay rửa chén bát như xưa nữa. Vào thời điểm hiện tại ngoại trừ các nhà hàng Việt Nam, có thể nói rằng tôi không còn thấy một người Việt Nam nào làm tại các nhà hàng Tàu trong vùng nữa. Cũng cần phải đề cập về phương diện kinh doanh nhà hàng của người Việt tại Peninsula, tôi có thể nói là không được khởi sắc. Các nhà hàng Việt tại vùng này lần lượt mọc lên rồi lại đóng cửa để rồi giờ đây toàn vùng chỉ còn hai ba tiệm phở bán chủ yếu cho khách Mỹ nên khẩu vị không thể so sánh được với các nhà hàng Việt Nam truyền thống ở những nơi đông người Việt trên đất Mỹ.

Nếu nói về người Việt mà không nhắc đến nghề làm móng tay là cả một điều thiếu sót lớn lao. Có lẽ hiếm có tiệm làm móng tay nào mà khi nhìn vào chúng ta không thấy bóng dáng người Việt mình. Nếu như nghề làm móng tay là một nghề kiếm ra tiền dễ dàng cho cả hai phái nam và nữ thì có một nghề khác ở vùng này cũng có thu nhập rất cao nhưng lại chỉ độc quyền cho phái nam, nhất là các chàng trai trẻ ôm mộng hải hồ, đó là nghề đánh bắt hải sản. Tiểu bang Virginia nói chung và vùng Peninsula nói riêng giáp ranh với biển nên ngành hải sản là một ngành kinh doanh phát triển mạnh. Vùng Peninsula có rất nhiều người Việt đi theo các tàu đánh bắt sò điệp (scallop), đánh cá hoặc bắt cua. Thường một năm họ chỉ đi theo tàu chừng vài tháng và mỗi chuyến đi thường kéo dài từ một đến ba tuần. Chỉ cần làm ngần ấy thôi nhưng thu nhập của họ là điều mơ ước của rất nhiều người.

Nhưng không như nghề làm móng tay của người Việt vẫn còn phát triển mạnh và được nhiều người theo đuổi, giờ đây số người Việt đi theo các tàu đánh cá đã ít dần. Lý do vì những chàng trai trẻ của thời kỳ vượt biên thập niên 80 hay đi xuất cảnh đầu thập niên 90 nay đều đã ở độ tuổi 50-60. Đó là lứa tuổi không còn thích hợp với công việc nặng nhọc trên sông nước nữa rồi.

Thoắt chốc đã 47 năm trôi đi từ ngày Sài Gòn đổi chủ mở đầu cho cuộc di dân lớn của người Việt chúng ta ra hải ngoại. Số người người Việt tại đây phần lớn đều đã thành công. Nhiều người cột trụ gia đình của những ngày đầu tị nạn trong đó có các sĩ quan đi diện HO nay đã rời bỏ thế giới tạm này để đi về một nơi xa xôi. Thế hệ trung niên của ngày ấy giờ đều đã vui thú điền viên an hưởng tuổi già. Thế hệ thanh niên xưa kia thì hiện tại có một số nếu không nắm giữ những công việc quan trọng tại các hãng xưởng thì cũng làm chủ những cơ sở kinh doanh của mình. Các cháu nhỏ theo chân cha mẹ làm người tị nạn năm xưa và những cháu sinh ra tại đất Mỹ ngày nay đã và đang tiếp nối bước chân của thế hệ đi trước làm rạng danh truyền thống của cha ông. Tất cả những đóng góp của họ vào xã hội Mỹ ngày nay chính là sự đền đáp lại mảnh đất đã mở rộng vòng tay tiếp đón họ vào những năm trước. Có lẽ chính phủ Hoa Kỳ cũng phải nhận thức được rằng họ đã không lầm khi đón người Việt chúng ta nhập cư.

 Trải qua bao thăng trầm, từ cuộc suy thoái kinh tế năm 2009 đến trận dịch Covid-19 bắt đầu từ năm 2020 cho đến tận bây giờ, cộng thêm ảnh hưởng của cuộc chiến xâm lăng của Nga vào Ukraine đã không ít gây ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng Việt Nam ở đây. Tuy nhiên khi sóng to gió lớn thì ta cần vững tay chèo. Hy vọng với truyền thống cần kiệm siêng năng cố hữu của người Việt Nam, cộng đồng chúng ta tại vùng Đông Nam Virginia cũng như toàn nước Mỹ sẽ mau chóng vượt qua được thời kỳ khó khăn này. Cho dù hoàn cảnh có bi đát đến đâu hãy vững tin vào lời dạy của cổ nhân “sau cơn mưa trời lại sáng”.

Thảo Lan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 496,129
Sang Mỹ, Mị thấy các chùa chiền, Thiền viện như những trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Mỗi cuối tuần các đồng hương có thể tụ về chùa để tu tập, để trò chuyện bằng tiếng Việt, để chia sẻ, để cảm nhận được không khí cộng đồng Việt. Ngày Tết cổ truyền, bà con đồng hương Phật tử xa quê lại có dịp vãn cảnh chùa với những trang trí quen thuộc ngày Tết, có hoa mai, hoa đào. Nhiều chùa chiền và thiền viện còn công phu trang trí cảnh sắc làng quê Việt Nam, để những người con xa xứ tìm chút hương vị quê hương, giúp cho Phật tử thuần thành hay “Phật tử ngang hông” như Mị cảm nhận được thiện ý chan hòa, hoan hỷ. Mái chùa như là nơi chở che hồn Việt. Dù đi chùa để tu học Phật pháp, hay để nương tựa tâm hồn trong những ngày đau khổ chông chênh, hay chỉ đơn giản là ham vui và bớt sân si như Mị thì Mị tin rằng mỗi người khi trở về đều đem theo mình chút niềm vui an lạc trong giai đoạn nhiều bất ổn trên cả thế giới như hiện nay. Mị thấy mình được sống trong môi trường an toàn và tự do...
Một trong những người bạn nối khố của tôi vốn là nhà báo. Sau Giáng Sinh 2021, anh gọi cho tôi nói tôi còn nợ anh ấy bài viết cho số báo Xuân Nhâm Dần của anh sắp trình làng. Tôi cố tảng lờ, “Nợ gì nhỉ?” Bạn liền quát vào máy, “Tôi xin ông. Ông cứ cái tật đánh trống lãng với tôi đấy hả?” Tôi xởi lởi hỏi viết gì bây giờ, bạn liền ra lệnh, “Mùa Xuân, viết về tuổi già chứ còn gì nữa.” Tôi sực nhớ mình có hứa với bạn, nên phải trả cho xong món nợ cuối năm. Lục mãi trong trí nhớ của mình nay đang xuống cấp, tôi bèn chọn ngay việc tản mạn tuổi già của chính mình và của bạn bè đang lưu lạc ở Mỹ, nơi xứ lạ quê người.
Thôi để tôi tả một cuộc hèn hò trên sân khấu trường quay bạn muốn hẹn hò trong nước thì bạn đọc hải ngoại dễ hình dung hơn. Giữa sân khấu là một bức màn được buông xuốn để hai bên không thấy nhau. Bên nhà trai có người hướng dẫn chương trình là đàn ông, bên nhà gái là cô hướng dẫn duyên dáng. Thường thì bên cô gái được mời lên sân khấu trước, sau đó đến bên chàng trai. Cô gái giới thiệu về lý lịch trích ngang của bản thân, nói sơ lược về tình trường mà cô đã trải qua, thể hiện tài năng hay cũng có thể gọi là tài vặt như ca hát, nhảy múa để góp vui với chương trình. Điểm quan trọng nhất là cô nói thẳng ra ý muốn của cô với chàng trai bên kia bức màn về mẫu người đàn ông mà cô muốn hẹn hò.
Chẳng biết tại sao mà từ khi qua Mỹ cho tới nay tôi bị lời nguyền gì mà mỗi năm đều bị bệnh mất mấy ngày, nhẹ thì cảm, sổ mũi nóng sốt, nặng thì bỏ ăn một hai bữa. Còn không thì chạy xe bị người ta vượt đèn đỏ hít đít hoặc húc hông, có lẽ thấy tôi mỗi ngày mỗi hên nên vận bám vào người càng nặng. Năm ngoái trước đám cưới con trai là thằng Dũng thì Covid tới thăm và ở nhà chơi chung với tôi 50 ngày. Năm vừa rồi đám cưới thằng Duy sức khỏe chưa lấy lại được thì bị giời leo đau đến nỗi tôi không bước nổi. Vì cứ bị con bệnh đeo bám như vậy nên thằng Duy là con trai lớn đã thương mà trả hết nợ nhà cho để tôi yên tâm ở nhà nghỉ ngơi cho khỏe.
Sở dĩ gọi là "nghề" vì chuyện trong nhà tôi, ông anh rể là sĩ quan đi "cải tạo", thằng con của anh ấy, là cháu ruột tôi, vào lớp Một, nhà trường gửi về bản khai lý lịch, tên bố tên mẹ và nghề nghiệp. Chị tôi điền lý lịch cho thằng bé, mặc dù lúc ấy chị đang chạy chợ trời, nhưng theo “kinh nghiệm” mấy chị hàng xóm thì không nên khai chợ trời, sẽ bị đánh giá là …tiểu tư sản, con mình sẽ bị trù dập, cho nên dù chẳng hiểu thằng bé 6 tuổi còn thò lò mũi xanh sẽ bị trù dập kiểu gì, chị bèn ghi là “nội trợ” cho an toàn. Còn phần nghề nghiệp bố thì để trống vì không biết khai thế nào. Đến lớp, cô giáo liền điền vào khoảng trống nghề nghiệp của bố nó là... "học tập cải tạo"! Mà nghề này còn sinh ra nhiều nghề khác cho những người tù, nào là chăn lợn, nuôi gà, trồng rau, nấu cám, đốn củi trên rừng. Lần đó tôi theo chị lên trại Thành Ông Năm thăm nuôi anh rể, anh ấy tặng vợ con và các em những chiếc vòng đeo tay, chiếc lược được chạm trổ rất xinh xắn do chính tay anh làm, anh bảo đó là "nghề"
Ai cũng có một thời thơ ấu và thanh xuân riêng của mình. Vậy mà ngày còn nhỏ tôi không bao giờ quan tâm đến tâm tư tình cảm và suy nghĩ riêng của má. Tôi cứ thấy má là của gia đình, là của chúng tôi. Tất cả suy nghĩ, việc làm của má đều dành cho chồng con, cho gia đình này. Tôi đã nhận những yêu thương, chăm sóc một chiều của má như một chuyện đương nhiên. Giờ ngồi nhớ lại hồi nhỏ chẳng bao giờ thấy má gặp lại các bạn học xưa để cười đùa rộn rã nhắc về tuổi thơ như thế hệ chúng tôi bây giờ. Chỉ lâu lâu dì Nghiêm là em ruột của má từ Sài Gòn về là 2 chị em ríu rít như chim và nói toàn tiếng lóng với nhau kiểu như mật mã nghe ngộ lắm. Má tôi và dì cứ cười nói rộn ràng còn chúng tôi thì ngơ ngác chẳng hiểu gì. Chắc thuở còn con gái mấy dì và má nói chuyện với nhau kiểu này để giữ bí mật những chuyện riêng tư, qua mặt người lớn mà hẹn hò, nghịch ngợm đây. Ghê thật! Ai bảo thế hệ xưa hiền hơn bây giờ? Chỉ là họ giấu kỹ và không có mạng Internet hay Facebook để ai cũng biết như ngày nay thôi
Dưới ánh mặt trời như thiêu đốt làm bầu không khí rung rinh, nhảy múa đến lóa mắt, đoàn tù nhân đi chân không, ở trần trùng trục, chỉ mặc độc nhất cái quần xà lỏn, vài người đầu đội các chiếc nón cũ kỹ, rách rưới mà họ lượm được đâu đó, đang mệt nhọc lê thân xác mỏi nhừ sau một ngày lao động vất vả trở về trên con đường đất đỏ nóng hừng hực khiến chân họ muốn bỏng, vai thì đỏ và rát bởi nắng cháy. Hai bên đường, rẫy được tù nhân khai khẩn rộng thênh thang, chạy ngút mắt đến tận bìa rừng chỉ chừa lại những gốc rạ khô cằn sau mùa gặt. Giữa cánh đồng một cây Cầy cháy sạm, còn trơ lại vài nhánh đen đúa, cháy dở, chơ vơ chĩa lên cao như cố chống giữ lấy bầu trời to lớn tạo cho khung cảnh một nỗi buồn thê lương như phận người tù ở trại Đồng Phú này!
Hôm nay xé tờ lịch qua tháng tư, tim tôi thấy bồi hồi, xáo trộn những suy nghĩ mông lung bên tách cà phê, ký ức trở về miên man biết bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu câu chuyện ngày ấy, rõ in trong đầu như mới vừa xảy ra đâu đây...
Sau nhà tôi là rừng, rừng ngày xưa không nhìn thấy gì ngoài màu lá xanh, những con chim sặc sỡ màu nhưng chúng chỉ cất tiếng hót lẻ loi một mình, không buồn cũng không vui. Những con thú hiền hoà như sóc với thỏ là những kẻ lãng du tử tế. Chúng thấy người không thích mắt khi nhìn chúng nữa thì sóc nhập thiền nơi những hốc cây, những hốc đá ven bờ suối là tịnh thất của thỏ. Trong khu rừng có con suối nhỏ, có đàn vịt trời khi lội khi baydưới chân đồi bluebonnet tượng trưng cho tiểu bang Texas. Mùa hoa rộ tháng tư thì cơ man là người đến chụp hình, xe đậu quanh đồi không đủ chỗ thì người ta lái xe vào xóm nhà đậu tạm. Tôi thích bị làm phiềm kiểu Mỹ vì chỉ có ở Mỹ khi người không quen biết bấm chuông nhà chỉ để xin phép cho họ đậu cái xe trước nhà mình một lát, họ lên đồi chụp vài tấn hình sẽ đi ngay. Tôi hình dung ra những bức ảnh gia đình, tình nhân, bạn hữu của những người tử tế đã làm nên phong cách Mỹ khác biệt.
Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay. Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.
Nhạc sĩ Cung Tiến