Hôm nay,  

Cộng đồng người Việt tại Đông Nam Virginia

18/05/202212:18:00(Xem: 3490)

 

Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016 , Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19 và 21.

*


Người Việt tại vùng Peninsula:

Không có con số thống kê chính thức về số người Việt sinh sống tại vùng bán đảo ở phía Đông Nam của tiểu bang Virginia (được gọi là Peninsula), nơi tôi sinh sống bao gồm các thành phố Hampton, Newport News, Poquoson, Williamsburg và một phần của James City County và York County. Dựa theo dữ kiện của cơ quan điều tra dân số Hoa Kỳ (US Census Bureau) thì vào năm 2019 có khoảng 78,317 người gốc Việt sinh sống tại tiểu bang Virginia. Theo tôi thì đa số tập trung ở vùng phía bắc Virginia giáp ranh với thủ đô Washington DC.

Năm 2009 tôi có viết một bài về cộng đồng Việt Nam tại vùng này mà khi ấy tôi phỏng đoán có khoảng 2,000 người gốc Việt sinh sống tại đây. Tôi đưa ra con số này dựa theo cả trực giác lẫn áp dụng phương pháp khoa học để tính toán, đó là căn cứ vào sổ niên giám điện thoại (yellow book) để tính. Ngày nay số người còn giữ điện thoại dây ở nhà và đăng ký tên vô sổ niên giám điện thoại rất ít nên rất tiếc phương pháp này không còn áp dụng được nữa. Sau đây là những gì tôi đã làm khi đó để áng chừng dân số của cộng đồng người Việt tại đây vào năm 2009.

Trước hết căn cứ vào số lượng người mang họ Nguyễn (họ phổ biến nhất của người Việt) ở trong vùng rồi suy luận ra, ta có thể phỏng đoán được số lượng người Việt. Theo tin từ trang Wikipedia tiếng Việt thì tôi được biết theo thống kê năm 2005 ở Việt Nam người họ Nguyễn chiếm 38% dân số. Dĩ nhiên con số 38% này không phải là con số tuyệt đối có thể đại diện cho bất cứ tập thể nào. Nghĩa là không phải ở bất cứ nhóm người nào người họ Nguyễn cũng chiếm tỷ lệ 38%. Do đó trong ước tính của mình tôi áp dụng con số khiêm nhường hơn một chút đó là chỉ khoảng 1/3 người Việt mang họ Nguyễn.

Theo quyển niên giám điện thoại vùng Peninsula năm 2009, có tất cả khoảng 90 gia đình mang họ Nguyễn đăng ký điện thoại. Như vậy ta có thể nói chúng ta có khoảng 360 gia đình người Việt nam tại vùng này. Nếu tính một gia đình tiêu biểu gồm 4 người (vợ chồng và hai con) thì chúng ta sẽ có sấp sỉ 1,440 người Việt. Tuy nhiên theo truyền thống Việt Nam, các gia đình anh chị em có thể sống quây quần với nhau hoặc trong gia đình còn thế hệ ông bà thì ta có thể tính trung bình một gia đình Việt Nam có 5 người. Như thế con số người Việt tại vùng Peninsula này có thể dao động từ 1,440 đến 1,810 người. Con số này khá gần với con số 2,000 người mà tôi phỏng đoán theo trực giác. Đây chỉ là con số tôi phỏng đoán dựa theo niên giám điện thoại năm 2009.

Để phỏng đoán số người gốc Việt tại vùng Peninsula vào thời điểm hiện tại, tôi áp dụng cùng một mức tăng trưởng dân số cho cả tiểu bang Virginia trong cùng quãng thời gian đó. Theo dữ kiện của văn phòng điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2005 thì số người gốc Việt ở tiểu bang Virginia là 48,745. Nếu so sánh với con số 78,317 người Việt theo dữ kiện năm 2019 thì mức tăng trưởng dân số của người Việt tại đây là khoảng 60%. Như vậy con số người Việt ở vùng Peninsula này vào thời điểm hiện tại có thể vào khoảng 2,304 đến 2,896 người.

Người Việt định cư tại vùng này đến từ nhiều đợt. Đợt đầu tiên của những người may mắn rời quê hương từ năm 1975 định cư tại vùng này có lẽ chỉ khoảng vài chục người. Đợt thứ hai từ những thuyền nhân (boat people) bỏ xứ ra đi những năm cuối của thập niên 70 sang thập niên 80 được bảo trợ về đây cũng khá đông. Đợt thứ ba có lẽ đông nhất đi theo diện đoàn tụ gia đình (ODP, trong đó có gia đình tôi), con lai, cựu tù nhân chính trị (HO, trong đó có gia đình vợ tôi), đổ về vùng này ào ạt vào những năm đầu thập niên 90 cho đến khi chương trình này chấm dứt sau đó sau đó vài năm. Từ đó đến nay người Việt về định cư tại vùng này theo các chương trình di dân bảo trợ theo hạn ngạch (quota) như hầu hết các sắc dân khác trên thế giới chứ không còn được ưu tiên theo quy chế tị nạn như những năm trước nữa. Phần lớn số người Việt qua thời gian sau đều theo diện vợ chồng hoặc hôn phu/thê bảo lãnh từ các Việt Kiều về nước mà không ít trong số đó là những đám cưới giả.

Đúng ra còn một thành phần nữa đó là những người qua Mỹ trước năm 75. Họ là vợ những người quân nhân, viên chức Mỹ theo chồng rời Việt Nam khi cuộc chiến chấm dứt. Cũng có thể họ là những người đi du học, tu nghiệp rồi ở lại. Dù sao thì số người của thành phần này tại đây rất nhỏ.

Bước đầu lập nghiệp:

Cho dù bỏ xứ ra đi theo hình thức nào thì họ đều có chung một điểm là cùng bỡ ngỡ trước một xứ sở xa lạ và phần lớn đều đặt chân đến đây với hai bàn tay trắng. Trừ những ai được gia đình bảo lãnh theo diện di dân sau này, được gia đình chuẩn bị chăm lo cho mọi thứ từ A đến Z, số còn lại đều phải trông chờ vào sự giúp đỡ của các cơ quan thiện nguyện. Trừ một số có sẵn kiến thức hoặc tay nghề, đa số người Việt bước đầu định cư tại Hoa Kỳ  đều thiếu một kỹ năng nghề nghiệp (skill) và khả năng Anh Văn. Để có thể hội nhập vào xã hội và có thể tự túc tại quê hương mới, họ phải chấp nhận làm những công việc đơn giản với đồng lương tối thiểu. Trước tiên phải kể đến các công việc chạy bàn, rửa chén bát hoặc phụ bếp tại các nhà hàng Tàu trong vùng. Trong những năm 1990, các chuỗi nhà hàng Tàu tại Hampton, Newport News đều có một số lượng nhân viên Việt Nam đông đảo. Công việc chạy bàn (waiter, waitress) đa số do các bạn trẻ còn đi học làm part time để phụ giúp thêm gia đình. So với việc rửa chén bát thì chạy bàn có thu nhập cao hơn do có cơ hội kiếm được tiền tip từ khách hàng.

Vào thời ấy, một buổi tối của ngày weekend họ có thể kiếm được $40, $50 tiền tip. Đây là một con số khá lớn nếu so với mức lương tối thiểu $4.25 một giờ của tôi vào lúc ấy. Khi đợt di dân theo các gia đình cựu sĩ quan (HO) và các gia đình có con lai đổ về vùng này ào ạt trong những năm đầu thập niên 90 thì các nhà hàng không thể đáp ứng đủ công việc làm cho họ. Các hãng xưởng nhỏ trong vùng chính là nơi đã giúp đỡ rất nhiều cho người Việt tị nạn trong bước đầu chập chững trên miền đất hứa. Cũng cần phải nói rõ thêm rằng sự đóng góp của người Việt tị nạn vào doanh thu của các hãng này cũng không phải là nhỏ. Tuy nhiên, chúng ta không nên bàn về vấn đề này trên nguyên tắc sòng phẳng thuận mua vừa bán. Dù sao chúng ta vẫn cần phải trân trọng sự giúp đỡ lúc ban đầu của các vị ân nhân trong những hãng xưởng này.



Một trong số đó là hãng hải sản Graham and Rollins Inc. tại downtown Hampton, nơi tôi làm mấy năm đầu định cư tại đây. Hầu hết những người Việt Nam mới đặt chân qua đây vào thời điểm đó đều không có khả năng để cạnh tranh trong thị trường nghề nghiệp với dân bản xứ. Chính hãng này đã mướn rất nhiều người trong số họ để làm việc cho chi nhánh của hãng bên một bến sông tại Hampton. Vào lúc cao điểm của mùa hè, số người Việt Nam làm tại đây có thể lên đến trên 40-50 người. Họ có thể là những người đã gần đến tuổi về hưu mà có đôi khi cả đời ở Việt Nam chưa chắc đã phải ra ngoài làm việc. Họ cũng có thể là những em học sinh trung học nghỉ hè làm thêm giúp đỡ gia đình. Họ còn là những sinh viên như tôi sau giờ học ghé vào làm thêm kiếm tiền nuôi sống bản thân chờ ngày đại đăng khoa. Và còn có người như chị tôi đã từng làm nha sĩ, có phòng mạch riêng tại Sài Gòn. Giờ đây, ban ngày lo dồi mài kinh sử chờ ngày ứng thí để hy vọng được theo đuổi lại nghề xưa, trong khi đêm đến lại chăm chỉ lội bộ dưới trời đông giá đến hãng ngồi gỡ thịt từng con cua để kiếm tiền đóng học phí.

Theo sự xác nhận của phó giám đốc James Casey, với sự chăm chỉ làm việc, có người Việt Nam đã kiếm được trên $30,000 một năm. Mức lương này tương đương với mức lương kỹ sư mới ra trường của thời đó (1990). Phần lớn số người Việt Nam làm việc tại hãng cua này, trong đó có gia đình tôi, ở khu Old Towne Apartments gần tòa thị chính Hampton. Khu apartment này thời đó được sự giúp đỡ của sở Phát triển Đô Thị và Nhà Đất Hampton (City of Hampton Housing and Urban Development) nên đã thu hút rất đông các gia đình Việt Nam mới định cư. Khi ấy chúng tôi vẫn gọi đùa khu đó là một little Vietnam của vùng này.

Đối với những người định cư được một thời gian, có khả năng theo học các khóa dạy nghề thì họ tập trung làm việc có chuyên môn cao hơn tại những xưởng cơ khí (machine shop) hay các hãng xưởng lớn như hãng đóng tàu lớn nhất nước Mỹ Newport News Shipbuilding, các hãng ngoại quốc lớn như Siemens, Valeo, Liebherr, hay Canon. Dĩ nhiên không thể bỏ qua cơ quan NASA của chính phủ.

Thành công nơi miền đất hứa:

Chỉ sau một thời gian ngắn với bản chất thông minh cần cù phần lớn người Việt tại đây đều đã thành công và có một cuộc sống ổn định không thua kém gì người dân bản xứ. Giờ đây có thể  nói là hầu hết người Việt tại đây đã làm chủ căn nhà riêng của mình. Họ đã lần lượt từ bỏ những công việc tạm bợ với đồng lương tối thiểu để kiếm những công việc ổn định hơn với đầy đủ quyền lợi về bảo hiểm cũng như quỹ hưu trí. Theo thời gian chúng ta không còn thấy người Việt Nam làm những công việc chạy bàn hay rửa chén bát như xưa nữa. Vào thời điểm hiện tại ngoại trừ các nhà hàng Việt Nam, có thể nói rằng tôi không còn thấy một người Việt Nam nào làm tại các nhà hàng Tàu trong vùng nữa. Cũng cần phải đề cập về phương diện kinh doanh nhà hàng của người Việt tại Peninsula, tôi có thể nói là không được khởi sắc. Các nhà hàng Việt tại vùng này lần lượt mọc lên rồi lại đóng cửa để rồi giờ đây toàn vùng chỉ còn hai ba tiệm phở bán chủ yếu cho khách Mỹ nên khẩu vị không thể so sánh được với các nhà hàng Việt Nam truyền thống ở những nơi đông người Việt trên đất Mỹ.

Nếu nói về người Việt mà không nhắc đến nghề làm móng tay là cả một điều thiếu sót lớn lao. Có lẽ hiếm có tiệm làm móng tay nào mà khi nhìn vào chúng ta không thấy bóng dáng người Việt mình. Nếu như nghề làm móng tay là một nghề kiếm ra tiền dễ dàng cho cả hai phái nam và nữ thì có một nghề khác ở vùng này cũng có thu nhập rất cao nhưng lại chỉ độc quyền cho phái nam, nhất là các chàng trai trẻ ôm mộng hải hồ, đó là nghề đánh bắt hải sản. Tiểu bang Virginia nói chung và vùng Peninsula nói riêng giáp ranh với biển nên ngành hải sản là một ngành kinh doanh phát triển mạnh. Vùng Peninsula có rất nhiều người Việt đi theo các tàu đánh bắt sò điệp (scallop), đánh cá hoặc bắt cua. Thường một năm họ chỉ đi theo tàu chừng vài tháng và mỗi chuyến đi thường kéo dài từ một đến ba tuần. Chỉ cần làm ngần ấy thôi nhưng thu nhập của họ là điều mơ ước của rất nhiều người.

Nhưng không như nghề làm móng tay của người Việt vẫn còn phát triển mạnh và được nhiều người theo đuổi, giờ đây số người Việt đi theo các tàu đánh cá đã ít dần. Lý do vì những chàng trai trẻ của thời kỳ vượt biên thập niên 80 hay đi xuất cảnh đầu thập niên 90 nay đều đã ở độ tuổi 50-60. Đó là lứa tuổi không còn thích hợp với công việc nặng nhọc trên sông nước nữa rồi.

Thoắt chốc đã 47 năm trôi đi từ ngày Sài Gòn đổi chủ mở đầu cho cuộc di dân lớn của người Việt chúng ta ra hải ngoại. Số người người Việt tại đây phần lớn đều đã thành công. Nhiều người cột trụ gia đình của những ngày đầu tị nạn trong đó có các sĩ quan đi diện HO nay đã rời bỏ thế giới tạm này để đi về một nơi xa xôi. Thế hệ trung niên của ngày ấy giờ đều đã vui thú điền viên an hưởng tuổi già. Thế hệ thanh niên xưa kia thì hiện tại có một số nếu không nắm giữ những công việc quan trọng tại các hãng xưởng thì cũng làm chủ những cơ sở kinh doanh của mình. Các cháu nhỏ theo chân cha mẹ làm người tị nạn năm xưa và những cháu sinh ra tại đất Mỹ ngày nay đã và đang tiếp nối bước chân của thế hệ đi trước làm rạng danh truyền thống của cha ông. Tất cả những đóng góp của họ vào xã hội Mỹ ngày nay chính là sự đền đáp lại mảnh đất đã mở rộng vòng tay tiếp đón họ vào những năm trước. Có lẽ chính phủ Hoa Kỳ cũng phải nhận thức được rằng họ đã không lầm khi đón người Việt chúng ta nhập cư.

 Trải qua bao thăng trầm, từ cuộc suy thoái kinh tế năm 2009 đến trận dịch Covid-19 bắt đầu từ năm 2020 cho đến tận bây giờ, cộng thêm ảnh hưởng của cuộc chiến xâm lăng của Nga vào Ukraine đã không ít gây ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng Việt Nam ở đây. Tuy nhiên khi sóng to gió lớn thì ta cần vững tay chèo. Hy vọng với truyền thống cần kiệm siêng năng cố hữu của người Việt Nam, cộng đồng chúng ta tại vùng Đông Nam Virginia cũng như toàn nước Mỹ sẽ mau chóng vượt qua được thời kỳ khó khăn này. Cho dù hoàn cảnh có bi đát đến đâu hãy vững tin vào lời dạy của cổ nhân “sau cơn mưa trời lại sáng”.

Thảo Lan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 496,370
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Ngồi một mình trong căn phòng vắng, mọi người đang vui chơi ở đâu đó cuối tuần để lại cho tôi một cơ hội, một dịp mà tôi thích lắm, thích nhất từ ngày đặt chân đến đất Mỹ, đó là một không gian riêng tư cho mình Những ngày bơ vơ lạc loài bước chân ngỡ ngàng đến Mỹ. Ngày đó ai cũng như nhau là cùng sống chen chút nhau thật đông trong những căn nhà mướn, căn phòng quá tải… nhưng thôi điều đó không thật sự làm buồn phiền tôi, nhưng tôi chỉ ao ước cho tôi một khoảng không gian, thời gian yên tĩnh cho tôi quá khó , không hề có...
Vắt qua dòng sông có đến mười mấy cây cầu, những cây cầu bằng sắt thép, kiểu cách như cầu Bình Lợi, Bình Triệu vậy… Những cây cầu có tuổi đời năm mươi năm, một trăm năm nhưng vẫn tiếp tục trách vụ kết nối đôi bờ. Có những cây cầu quay, mở ra để cho tàu thuyền qua lại, ngày nay nó đã không còn được sử dụng nữa. Nó được kéo cao lên và giữ nguyên như thế để làm di tích lịch sử. Những cây cầu mở ngày xưa giờ trở thành nhân chứng cho một thời vàng son chưa xa lắm.
Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!
Ông Chương thức dậy thật sớm sau một đêm khó ngủ trằn trọc, dù ông đã nghe mấy bài phật pháp do thầy Pháp Hòa giảng để dỗ giấc ngủ. Bên ngoài cây cỏ còn ngái ngủ dưới lớp sương dày đặc, chưa thấy mặt trời lên. Ông rón rén đi pha cà phê thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây tiếng động làm mất giấc ngủ cả nhà...Tách cà phê thơm phức nóng hổi gây cho ông cảm giác dễ chịu. Ông lặng yên như đang lật trang đời từ ngày qua định cư nước Mỹ …Nhớ ngày miền Nam bị mất, ông đi tù 5 năm trở về, lúc ấy ông chỉ mới ngoài 30 tuổi, người yêu đã sang ngang, cùng lúc mất tất cả. Ông chán chường cuộc sống chẳng thiết gì nữa, nhưng mấy năm sau duyên nợ đến cho ông gặp được cô giáo dạy mầm non tên Dung, không chê ông nghèo tối ngày đi “dọc đường gió bụi”. Hai người nên duyên và hơn năm sau cháu Việt ra đời, đến cháu Nga, cháu Nguyệt, và con trai út là cháu Quân. Gia đình ông ở ké nhà mẹ vợ, ông làm đủ thứ nghề ai kêu gì chạy đó, sau có được chiếc xe đạp thồ đón khách.
Sáng thứ Bảy cuối tháng 5 trời trở lạnh với mây mù và vài thoáng mưa phùn. Tự nhiên tôi chạnh lòng nhớ đến đàn chị Nguyễn Tinh Châu. Mai là ngày giỗ 3 năm của Chị. Thời gian qua thật nhanh. Sự ra đi của Chị quả là một mất mát lớn cho Hội YKH chúng ta, không những vì Chị là một trong những hội viên kỳ cựu, mà vì những hoạt động xã hội đắc lực của chị trong kêu gọi và thành lập quỹ cứu trợ nạn nhân cho nhiều thiên tai tại Mỹ, Nhật (Tsunami, 2011), Phi Luật Tân (Typhon Haiyan, 2013) và ngay cả Việt Nam (Bão Xangsane, 2006)…Và nhất là quỹ tương trợ hàng năm nhằm giúp đỡ các Thương Phế Binh sống cùng cực tại quê nhà. Con số đóng góp luân chuyển từ 8 ngàn đô cho đến 10 ngàn đô nói lên được sự nhiệt tình của Chị và của anh chị em chúng ta cho một mục đích chung, đúng, xứng đáng, nhân nghĩa và truyền thống.
Hồi đó, trong những kỹ sư mới ra trường về làm cho Bưu Điện, anh là một người tôi không ưa nhất, và có lẽ tôi cũng là người anh ghét nhất. Anh đẹp trai, con nhà giàu, mỗi cái tội mặt kênh kênh và cái giọng Huế. Cái giọng nói nặng trịch, oang oang sao mà khó ưa. Không những tôi mà cả mấy đứa bạn cùng cơ quan mỗi khi thấy anh đi ngang là che miệng cười nhái: đi mô rứa tề. Tôi ghét nhất là có lần anh lái xế hộp chở mấy ông bạn đi uống cafe, thấy tôi đi ngang mấy người bạn bảo dừng xe rủ tôi đi cùng, anh nói kệ nó, cái con nhỏ phách lối. Sau này thân nhau rồi, có lần tôi hỏi tại sao anh làm vậy, anh trả lời, “Lúc nào cũng thấy mấy thằng bạn cùng lớp xoay quanh em, mà mặt em cứ tỉnh bơ như thể ta là cái rốn vũ trụ, nhìn xốn mắt!”
Bà tiếp tục: Gia đình chúng tôi vượt biên theo diện “bán chánh thức” do nhà nước tổ chức. Mỗi đầu người phải đóng đủ 15 “cây” vàng. Gia đình gồm 10 người đúng ra phải đóng 150 cây nhưng đứa gái út lúc đó mới có 10 tuổi (giờ đây đã là bác sĩ sản khoa nổi tiếng ở thành phố này) nên nhà nước “ nhân đạo” cho đóng nửa suất là 7 cây rưỡi. Vậy là gia đình đóng tổng cộng 145 cây rưỡi để được ra khơi, còn có thoát được hay không thì không ai chịu trách nhiệm. Con tàu có sức chứa 180 người nhưng người ta đã thu vàng và cho lên tàu đến 240!” “Bước đầu mới đến Mỹ cũng như biết bao thuyền nhân khác, chúng tôi phải đối mặt với vô vàn khó khăn và làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh, ổn định đời sống và tiếp tục cho con ăn học thì không phải là dễ dàng gì, nhưng cũng không phải là khó lắm nếu mình có quyết tâm. Ông thì sang một cửa hàng bán sandwich và thức ăn nhanh (fast food ) học chế biến thức ăn và tự điều hành cửa hàng, còn tôi thì đi làm trong hãng đóng gói đồ nữ trang,
Nhưng, định mệnh vẫn còn muốn trêu ngươi tôi. Cơn bệnh ung thư ngực quái ác đã tìm đến với tôi, như thêm một đòn giáng chí mạng vào cuộc đời bất hạnh. Tiền bạc không có. Bảo hiểm sức khỏe không có. Người thân không có. Luật lệ, kiến thức của xứ người tôi cũng không có. Sẽ như thế nào, những ngày trước mắt của ba mẹ con tôi?
Nói đến những chuyện lừa gạt, hẳn mọi người cũng đã biết qua, từ tin tức báo chí, trên đài truyền hình, và rất nhiều chuyện phỉnh gạt thường xuyên xảy ra được truyền miệng từ người này qua người khác đã lâu rồi. Trong thời gian dịch bệnh, cấm cửa, lạm phát, kinh tế khó khăn, nên đã sinh ra nhiều chuyện lường gạt đảo điên không ai lường trước được. Con người nghĩ ra đủ cách để mà lường gạt nhau. Cùng lúc, đã vậy lại còn nhiều điều không may đã ập đến, không trở tay kịp, khiến cho cuộc đời đang lo toan dịch bệnh lại thêm lo lắng, vừa tình hình dịch bệnh, lại thêm thế thái nhân tình, nhân cơ hội, lợi dụng tình thế mà gia tăng, đã làm cho tinh thần mọi người càng thêm căng thẳng gấp bội.
Nhạc sĩ Cung Tiến