Hôm nay,  

Những Chuyện Tình Sau Tháng Tư Đen

25/04/202221:25:00(Xem: 4088)

tac-gia-minh-thuy

 

Tác giả lần đầu tiên tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình Người Hoa Nở.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali.

 

 

Mỗi buổi sáng dậy đi bộ phơi nắng sau vườn, ngắm hoa cỏ tốt tươi, được lùng khắp các cửa hàng từ Home Depot, Walmart, Lowes, Food Mart so sánh giá rẻ hơn mua về trồng đủ màu sắc rực tươi dưới trời trong xanh dịu mát. Tôi luôn ý thức “hôm nay mình còn mở mắt, còn được sống thêm ngày nữa để ngắm cảnh đẹp của thiên nhiên, hãy tận hưởng những giây phút thảnh thơi nhàn hạ đầy an lạc và hạnh phúc này”. Nhất là sau mấy mươi năm sống trên đất Mỹ, sau cuộc vượt biên thử thách với sự sống chết, thoát được sinh tử đến bến bờ tự do, may mắn có công ăn việc làm bền bĩ mấy chục năm qua. Nay đã đến tuổi retire chẳng còn lo âu điều gì. Tiền hưu được direct vào nhà bank, bảo hiểm được chính phủ cover 80% , muốn an tâm hơn mua thêm 20% bên ngoài chỉ trên dưới $100/ mỗi tháng. Trong tương lai vào chương trình ON LOK càng yên tâm và vui hơn, vì nơi này là sinh hoạt giải trí, giúp phương tiện đi lại khi không thể lái xe, chăm lo sức khoẻ và nhiều lãnh vực khác. Sống được như vậy làm sao ai không quên ơn nước Mỹ được, tôi luôn tự nhủ “phải sống làm sao để được xứng đáng với ơn mưa móc này..., cũng như nhớ ơn Trời Phật đã giúp duyên kết hợp tốt đẹp, khi so sánh những trường hợp buồn thảm về đề tài này”.                           

Hôm nay xé tờ lịch qua tháng tư, tim tôi thấy bồi hồi, xáo trộn những suy nghĩ mông lung bên tách cà phê, ký ức trở về miên man biết bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu câu chuyện ngày ấy, rõ in trong đầu như mới vừa xảy ra đâu đây...

Tháng 3 người dân Quảng Trị ồ ạt chạy vào Huế, nhà nào hầu như cũng có người quen hoặc bà con đến ở. Rồi người dân Huế lo sợ, hoang mang, mẹ tôi ngày nào cũng thu dọn đồ đạt gọn gàng, chờ có động tĩnh là đi thôi. Dân Quảng Trị tạm cư chưa nóng đất, lại cùng dân Huế tìm đường chạy tiếp. Gia đình nào có chút tiền hùn nhau thuê xe tải. Hình ảnh không bao giờ phai mờ trong tâm trí khi mẹ và chị em tôi ngồi trên xe tải, lúc lên đèo Hải Vân (từ Huế vào Đà Nẵng 100 km), chứng kiến dòng người đi bộ, vợ ẵm con nhỏ, chồng vác đồ đạc, hoặc đàn ông gánh mẹ một đầu gióng, con thơ một đầu gióng. Lúc ấy kẹt xe kinh khủng, đoàn người cắm cúi bước về phía trước như cái xác không hồn, sợ hãi VC quyết thoát đến miền tự do để được sống thanh bình, đúng như người dân thường nói sau 75 “Cái cột điện nếu biết đi cũng đã bỏ nước ra đi”.

Vào ở nhà bà con vùng Phước Tường, khu dân cư ngay trước mặt căn cứ của Mỹ, mỗi đêm VC pháo kích nhiều lần trúng những nhà chung quanh, 3 mẹ con sợ hãi nửa đêm chạy tiếp đến thành phố Đà Nẵng sống nhờ nhà bạn mẹ gần ga tàu. Khi VC vào tới Đà Nẵng, chị tôi gào khóc lóc vì nghĩ sẽ không còn gặp người anh đang làm việc tại Bạc Liêu. Mẹ tôi mặt mày tái xanh, đôi mắt trũng sâu quầng thâm vì mất ngủ. Sáng hôm sau mẹ gọi tôi ra góc sân, móc tiền đưa với nét mặt bơ phờ” con tìm quán nào gọi món ngon ăn cho no, rồi tới tiệm thuốc Tây mua 3 ống thuốc rầy về mẹ con mình cùng uống, mẹ đã từng sống với bọn họ rồi, ông nội có tên trong danh sách đấu tố, may trốn thoát được vào Nam, sống không nỗi với họ đâu con ơi” ...nói xong nước mắt bà chảy dài. Tôi xót xa đứt từng đoạn ruột nhưng không làm theo lời mẹ dặn. Gặp lúc VC mượn sân nhà để lập bàn ngồi đó, vài người lăm le chĩa súng những người trong nhà bắt ra ngồi tập trung ngoài sân , chúng tôi chưa hiểu chuyện gì thì thấy bao nhiêu đàn ông đang đi bộ, hoặc các xe Honda đang chạy ngoài đường đều bị thổi còi bắt tấp vào. Mấy cán bộ ngồi nơi bàn hỏi từng người khai báo lý lịch, xong họ lại đuổi chúng tôi vào nhà có 2 kẻ cầm súng đi theo canh chừng, nhường chỗ cho những người đàn ông tập trung nơi đó. Chiều gần tối mấy chiếc xe bít bùng đến chở họ đi đâu không biết, tôi đoán lờ mờ họ đã bị bắt, nhìn theo kẻ thua cuộc muốn ứa nước mắt.

Trở về Huế là những ngày ảm đạm như để tang cho đất nước, bà con sống trong phập phồng lo sợ. Mỗi đêm họ bắt họp tổ đốc thúc mọi nhà đi kinh tế mới, từ từ mỗi tuần cưỡng bách vài gia đình có tên trong danh sách. Đầu xóm nhà cấp tá của QLVNCH bị tịch thu, vợ con chạy về quê ngoại tá túc. Liên (bạn tôi) được cha mẹ giao căn nhà nơi Huế vì cha đổi vào làm việc trong Đà Nẵng và ở khu nhà trong cư xá Đoàn Kết. Lúc học bên Văn Khoa thuộc  ban sử địa, bạn được hội sinh viên bầu làm thủ quỹ, họp hành tổ chức những công tác thiện nguyện, có tên là “ Nối vòng tay lớn “, họ thường hay mượn tiền Liên chi tiêu những công việc chung khi quỹ đã cạn. Anh Sinh học năm thứ tư quý mến thương yêu Liên, Liên cũng có cảm tình và cảm nhận hạnh phúc khi sinh hoạt những tổ chức cùng anh có ý nghĩa như vậy. Sau ngày 30/4  ủy ban thành phố có giấy mời Liên qua nói chuyện, ông cán bộ hỏi “ cha cô là Nguỵ tại sao cô lại đi ngược con đường của cha? Liên uất ức tức giận, nhóm sinh viên đã lộ diện của phe bên kia. Cha tù tội nơi đâu không nghe tin tức, nhà bị tịch thu, mỗi lần anh Sinh đến nhà ông nội thăm đều bị Liên hét vào mặt “ đồ lừa gạt” và đuổi thẳng tay, từ đó chỉ còn là sự ghét bỏ hận thù.

Mai (bạn hàng xóm) có người yêu bị tù “cải tạo” vượt núi trèo đèo đi thăm, chỉ biết nhìn anh khóc, anh nhét lá thư viết tự khi nào, Mai sung sướng về nhà đọc tới thuộc lòng, đọc từng ngày như uống thuốc an thần chống chõi nỗi nhớ nhung đày đọa. Một hôm Mai vô ý để lá thư đâu đó chưa kịp cất, em gái 2 tuổi cầm được xé chơi nhiều mảnh, Mai hoảng hốt gom hết chạy tới nhà tôi nhờ chép lại sau khi các mảnh được dán chồng chéo. 

-  Lá thư sao chép cũng đã mất linh hồn của nó rồi, chỉ còn là cái xác nhưng vẫn muốn nhờ mi chép lại.

Mai nói như muốn khóc, tôi nghĩ “răng mà gái Huế lãng mạn như rứa không biết”. Hoàn cảnh gia đình Mai quá nghèo, mẹ sinh chỉ một em trai, còn lại là 11 chị em gái, ba thất nghiệp buồn thời cuộc uống rượu đế giải sầu, trong cơn say thường nói “con gái đông đề mạ bây buôn thúng bán mẹt nuôi hoài sao, kiếm chồng lấy hết đi cho rảnh nợ...” điệp khúc ngày nào cũng lập đi lập lại như cái gai trước mắt ông. Đúng lúc anh Dũng xuất hiện, nhà anh khá giả có xe đò chạy đường xa, anh trai làm tài xế và anh Dũng làm “lơ” xe, anh quen ba Mai đến nhà chơi thường tiếp tế thực phẩm, lúc gạo, khi chè cháo hoặc bánh mì..v..v..Giai đoạn này nhà ai cũng đói rách tả tơi, nhà tôi mỗi trưa dùng miếng bột mì hấp muối, chiều ăn bo bo hầm, thỉnh thoảng có cơm độn khoai sắn, chờ nhai hết khoai sắn để ăn rau muống luộc kèm vào thì chỉ còn đúng một và cơm. Nhà Mai càng thê thảm hơn nữa mỗi lần tôi qua chơi, nồi cơm độn được chia mỗi người một chén chan nước mắm ăn cầm hơi, cho nên anh Dũng như vị cứu tinh, anh đang để mắt tới Mai nên càng bị sự thúc ép. Người yêu biết ngày nào trở về, có thương có nhớ biết làm sao trong hoàn cảnh này. Mai nhắm mắt, những giọt nước mắt lặng lẽ rơi dài” hết rồi mi ơi...bao nhiêu sự hiểu biết, bao nhiêu câu thơ từ đây chôn chặt dưới ba tấc đất...” Mai thốt ra trong nghẹn ngào, tôi chỉ biết tế nhị im lặng vì hiểu rõ 2 người là 2 tầng lớp chênh lệch xa, Mai sống với thơ văn mơ mộng, còn anh Dũng lại thô lỗ ít học, nói chuyện trần trụi hay kèm tiếng chưởi thề nói tục” đời buồn tênh như lỡ một cung đàn ....”Sau này nghe kể thỉnh thoảng anh còn dùng “ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”. Mai chỉ biết hướng về âm nhạc cho vơi bớt niềm tục khi ngồi ôm con ru ngủ, mơ màng về hình ảnh người lính chiến VNCH đang bị tù tội, len lén những giọt nước mắt nóng hổi tuôn trào ngậm ngùi.

“Người ơi, có những chiều xuân én bay xôn xao

Mong bóng ai kia hoàng hôn chìm dần trên phím tơ

Thu đến bơ vơ, Đông qua ngỡ ngàng, rồi Hè lại buồn sang

Có nhớ thương nhau xin đưa vào trong mơ...” (Lam Phương)

Sau 75, có số chán nản chẳng muốn học tiếp vì không thích bị những ông thầy “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, chưởi cha ông và chế độ cũ,” hoặc đang học bị tống khứ vì lý lịch xấu. Thanh niên thiếu nữ bị hốt đi lao động, nhất là thanh niên thường bị đi rà mìn, đi Thuỷ Lợi, tôi cũng bị lên Bình Điền trồng khoai canh tác theo kế hoạch của họ, mỗi gia đình phải đóng góp tiền, khi có khoai đem về chia đều mọi nhà.Tả về sự đói khát thèm muốn thì ai cũng trải, suốt ngày chỉ mơ ly chè ngọt, mơ cục mỡ trong nồi bún bò, khi nhìn dưới gầm giường đống khoai lang mà muốn khóc vì ăn suốt ngày ớn lên tận cổ, biết như vậy mới thấu hiểu cái khổ, cái đói gấp 10 lần trong tù cải tạo các anh đã gánh chịu.



Chuyện chị bạn khác tên Liễu ở trong Cầu Kho, trước 75 tôi thân Tuý Loan học chung lớp, thường hay đạp xe vào nhà bạn chơi, có lần gặp chị Liễu (hàng xóm) đang ngồi nhà Loan, chúng tôi quen nhau. Chị Liễu có vẻ hạp 2 đứa sau vài lần nói chuyện, riêng tôi rất mê lối nói chuyện của chị lãng mạn và sâu sắc. Chị thường điểm những phim ảnh nổi tiếng thời ấy như Những Kẻ Khốn Cùng, Kiều Giang, Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà, Công Chúa Sissi ..v..v...Chị rủ tới nhà chơi, anh là trung uý tác chiến, tôi chưa hề biết mặt chỉ thấy qua hình ảnh. Tuy đã có 3 mặt con, nhưng chị luôn kể, nhắc nhở về cuộc tình đẹp như mơ…

- Hai em biết không? lúc chị học năm đầu bên Văn Khoa, có 3 thanh niên để ý theo đuổi, nhưng chị chỉ mê anh Quân, chị thích hình ảnh hào hùng của người lính trận ngang dọc, để được mơ” anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng. Ngoài mưa khuya lê thê ...” (Nguyễn văn Đông). Có lúc cũng mong một lần anh bị thương để chị được đi thăm theo cảm xúc hạnh phúc lẫn khổ đau. Lấy nhau rồi, anh vẫn đi hành quân chẳng gần chị bao nhiêu, chị sống trong lo âu hồi hộp theo dõi những cuộc chiến gay cấn, chỉ biết cầu nguyện hằng đêm anh được sống sót. Có lần anh trở về nhưng không vào nhà, đứng ngoài mái hiên nhìn lén qua khung cửa sổ trong khi bầu trời mưa đen tối mù mịt, chị ngồi đan áo linh tính điều gì ngẩng mặt nhìn ra phát hiện mừng rỡ vô tả, nhưng anh vẫy tay đưa dấu muốn chị ra ngoài, đừng làm thức giấc các con đang ngon giấc. Cả hai cùng ngồi dưới mái hiên nhìn mưa rơi, ngồi thì thầm nhiều điều. Anh nói vừa nhìn được hình ảnh chị ngồi đan áo, truyền qua anh cảm giác rung động tuyệt vời, và anh chỉ muốn làm kẻ phong sương thầm lặng ghi nhận hình ảnh này. Tụi chị rất mê đi uống cà phê nghe nhạc, nhiều hôm gởi con cho bà ngoại, ngồi trầm ngâm cả tiếng trong quán nhìn mưa rơi thả hồn vào bài hát, chị mê giọng Sĩ Phú, anh mê giọng Lệ Thu và hồn ai nấy giữ…

Thời gian này sợ bị gọi đi lao động Thuỷ Lợi, Tôi vào Hợp tác xã thêu hàng xuất khẩu để được yên thân và kiếm cơm gạo, thêu ngày đêm không thấy ánh mặt trời muốn lòa con mắt, từ đó tôi không hề gặp chị. Khoảng một năm sau, chị tìm tới Hợp tác xã thăm, tôi đang thêu hàng gấp cho kịp nên vừa thêu vừa nói chuyện. Tôi hỏi về anh, nhắc nhở chuyện tình của chị và bày tỏ rất ngưỡng mộ, chị trả lời bình thường” anh vẫn khỏe đang còn “cải tạo”. Tôi hỏi thăm về cuộc sống của chị, chị kể đại khái đang buôn bán nuôi con. Chị ra về, tối trở lại nhà tôi mượn... ít tiền. Chị kể hoàn cảnh con đói, con đau ruột thừa, nhiều lần chị phải bán máu bên bệnh viện Huế, mỗi lần họ lấy máu xong mặt mày chị tối sầm, phải lết ra cổng mua tô cháo lòng và ly chè ăn xong mới tỉnh táo, tôi xót xa thương tâm không ngờ chị khổ đến vậy và không quên gởi chút tiền giúp chị.

Ngày sau Phúc (bạn thêu) ngồi cạnh tự dưng hỏi tôi:

- Thuý quen chị Liễu lâu chưa?

- Lâu rồi trước 75.

Bạn do dự quan sát:

- Sau này Thuý có biết gì thêm về chị ấy không?

Tôi lắc đầu 

- Lâu lắm rồi giờ mới gặp chị, mà sao? 

Bạn kể nhỏ sợ mọi người chung quanh nghe:

- Thuý biết ba mình đi tù, nhà bị họ lấy phía trước làm trụ sở, cho gia đình ở góc xó phía sau. Mấy tên đàn ông dẫn chị này về, không may một bà vợ biết được gọi công an và đến đánh ghen ầm lên, chị trả lời công an” tôi không cướp chồng ai, tôi chỉ trao đổi mua bán” rồi lầm lũi đi ra giữa hàng người đứng xem. 

Tôi tỏ vẻ không tin cố chống chế dùm chị Liễu, nhưng bạn là người đàng hoàng ít nói, nỗi hoang mang nghi ngờ theo mãi trong đầu nặng trĩu.

Lần khác chị Yến (bạn chị tôi) ghé nhà chơi gặp lúc nhà bị cúp đèn, khi trời nóng nực của mùa hạ, chị nói chuyện trên trời dưới đất, vô tình cũng kể về chị Liễu “số hắn răng khổ quá, đi làm điếm chui các bãi cỏ tối um nơi khu Thương Bạc, khách chạy làng, cãi vả bị tụi nó đánh bầm mặt, công an bắt về khu phố chụp hình treo bảng” ...Tôi bắt đầu run lên, tim thắt lại đau nhói không thể ngờ người phụ nữ thông minh có nhan sắc ngày nào nay phải chịu hoàn cảnh nghiệt ngả tới mức vậy. 

Bẵng thời gian lâu, lúc này tôi đã xin đem khung về nhà thêu. Đang cặm cụi mũi kim đường chỉ, thì Tuý Loan cùng chị Liễu đèo nhau chiếc xe đạp đến nhà tôi. Chị Liễu gởi cái xách tay hơi nặng, nói “giữ dùm chị nghe” rồi lật đật đi, tôi vui vẻ đón nhận và cất trong tủ. Khoảng 20 phút sau 2 người đổi ý trở lại lấy giỏ xách vội vã chào đi. Tôi nhìn theo chị lòng đầy xót xa suy nghĩ thầm “có ai muốn bị hoàn cảnh xô đẩy tới mức này đâu, nhất là với người đàn bà có học, có hiểu biết tận tường đạo lý làm người, có liêm sĩ và lòng tự trọng, em rất thông cảm chẳng xem thường chị đâu.”

Ngày kế Tuý Loan đến nhà tôi một mình, nét mặt có vẻ phân vân như muốn nói điều gì, vẻ nghiêm trang thoáng buồn. Rồi như bạn không thể đè nén được nữa, bạn tuôn ra:

-  Tao thì bận rộn theo học ngành hội họa, mi thì vùi đầu với công việc chẳng ai gặp ai, nên có những điều mi không tưởng tượng cuộc sống bên ngoài đau thương tới mức độ nào đâu.

Tôi ngắt lời 

-  Thì mi kể ra đi rào trước đón sau mà chi.

Loan thở dài chậm rãi:

-  Mi có biết cuộc đời chị Liễu sau này ra sao không? Chuyện nhỏ chuyện lớn chị đều kể cho tao nghe hết... Bán áo bán quần, bàn đồ đạt hết sạch, nhà lại ở thuê, con đói con bịnh, không còn gì phải đi bán máu. Đặt tủ thuốc trên sân ga bán, 10 người bán 4 người mua, có ngày không kiếm đồng nào, nghĩ đến mẹ và con đang chờ đem gạo về nấu cơm chiều, có người ve vãn xa gần, chị nhắm mắt gật đầu theo họ đến chỗ kín đáo bán dâm, rồi ghé chợ mua thức ăn chạy về trong tâm trạng nhục nhã đau buốt. Nhìn các con ngồi ăn chị đã nuốt nước mắt, nuốt nỗi cay đắng vào lòng. Chị thầm mơ ước được may mắn như bao người, có vốn buôn bán kiếm lời hầu thoát khỏi nghiệp số quá nặng nề.

Tôi im lặng ngồi thêu nhưng cảm giác như chết điếng, vậy là đúng sự thật 100% không thể không tin. 

-  Con chị bệnh hoài, mẹ lại vừa mất, nghiệp chị nặng quá không thoát khỏi nghề tồi bại đó. Hôm qua chị gởi mi giỏ xách, mi có đoán cái gì trong giỏ không? Là ít đồ vật của tên công an chị bán dâm, lúc nó ngủ say chị vội lục bóp và vơ vét vài thứ trốn về. Chị rủ tao đến gởi nhà mi cất dùm luôn, nhưng đi nửa đường tao la chị.

-  Không nên như vậy, Thuý ngây thơ vô tội không hề biết gì cuộc đời về sau của chị, lỡ có chuyện gì thì chị ác quá. Chị bảo tao dừng xe lại, chị rối trí ngồi xụp xuống bên lề đường nói “Thuý luôn đóng khung cuộc tình của chị, nhiều lần chị muốn kể nhưng Thuý cứ nhắc nhở ưa sống lặn hụp trong cái khung quá khứ ấy, vì vậy chị không thể tâm sự điều gì với Thuý, thôi cứ để Thuý giữ hình ảnh đẹp và không nên để nó bị liên lụy...”. Hai chị em ngồi thừ một hồi và quyết định quay lui lấy giỏ xách là vậy đó ...”

Tôi thở phào nhẹ nhõm nhưng lòng buồn vô hạn khi Loan nói thêm “chị Liễu suy sụp cả thể xác lẫn tinh thần, chẳng muốn sống nữa, chị nói không còn mặt mũi nhìn chồng, có lẽ lúc anh về chị sẽ giao con và đi biệt xa...”

Tôi lại bôn ba vào Nam tìm đường vượt biên nên đành xa bạn bè và những mẩu chuyện thương tâm, 5 năm đeo đuổi vào tù ra tội, hình ảnh Huế nhạt nhoà tạm thời cất giữ một góc trong tâm hồn. Qua Mỹ bước đầu cũng mờ mắt cày bừa, từ từ kỷ niệm được sống lại khi có phút thảnh thơi. Tôi liên lạc bà chị nhờ hỏi dò tin tức về chị Liễu để gởi quà, nhưng chị tôi báo tin chị Liễu đã mất vì bệnh cancel gan, hàng xóm chị Liễu cho biết anh đã học tập trở về, dẫn con vào Nam chẳng ai biết ở nơi đâu.

Những cuộc tình tan vỡ sau tháng tư ngày ấy còn nhiều chung quanh, chuyện chị X có người yêu là lính đi tù tội, bị VC làm nhục uất ức quá treo cổ tự vận chết. Những cặp chia xa vì đa số tìm đường vượt biên, đang yêu nhau ngày mai thấy biệt tích diễn ra đều đều. Tất cả vì 2 chữ Tự Do mạnh mẽ phải buông bỏ tình cảm” Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Vì hai chữ Tự Do! ta mang đời lưu vong” (Nam Lộc)

Chỉ còn trong kỷ niệm, nhất là mỗi tháng tư trở lại, ký ức diễn ra như cuốn phim của định mệnh...Ngày miền Nam mất nước, cuộc sống đảo điên bầm dập, trong đó có những người bạn của tôi buồn theo cuộc tình tan vỡ ...Tôi nôn nao chờ đợi ngày 30/ tháng tư để được lên San Jose tham dự lễ tưởng niệm, được thấy lá cờ vàng, được thắp nén nhang kính cẩn những vị tướng đã tuẫn tiết, được ngồi lại với nhau trong tình đồng hương cùng tâm trạng, cùng nhắc nhở ôn lại ngày ấy dù chỉ còn là hoài niệm…

Minh Thúy Thành Nội 

2022

Ý kiến bạn đọc
16/06/202219:35:38
Khách
MT xin cám ơn các bạn và quý anh chị em đã đọc bài viết , nhất là được học hỏi hiểu biết thêm từ anh Van Tran
Kính chúc sức khoẻ và bình an
Minh Thuý
07/05/202222:27:27
Khách
Cảm ơn Minh Thúy cho đọc bài viết cảm động phản ảnh một phần đời sống bi thương của người vợ người yêu của những người lính VNCH sau tháng 4 đen tối đó. Cơn bão tố thời cuộc đã làm biết bao nhiêu gia đình tan nát.
Chúng ta muôn đời mang ơn người lính VNCH và cũng không quên sự hy sinh của người vợ lính ở hậu phưong
30/04/202201:08:21
Khách
Sau 30-4-1975, các sĩ quan QLVNCH bị bắt đi tù " cải tạo tập trung", chịu muôn vàn thống khổ trong các trại tù lao động khổ sai. Những người vợ của họ cũng chịu cảnh trăm đắng ngàn cay, nuôi con thơ, mẹ già, chồng tù tội.... trong cái ngục tù bao la do cộng sản dựng lên để nhốt quân, dân miền Nam. Đời sống của họ còn khốn khổ hơn cả những người tù trong trại " cải tạo", cũng đói rách, bệnh hoạn, còn thêm nỗi nhục khi hoàn cảnh đưa họ vào những cảnh đời nghiệt ngã như tác giả Minh Thuý mô tả trong câu truyện thương tâm nói trên. Tội ác " giải phóng miền Nam " của Việt cộng là tội trời không dung, đất không tha! Chúng ta, người Việt tỵ nạn cộng sản trên vùng đất của thế giới tự do , không quên mối hận này, và quyết tâm làm những gì có thể để huỷ diệt chế độ tàn bạo phi nhân mà người cộng sản đang áp đặt trên quê hương Việt Nam.
30/04/202201:04:40
Khách
Sau 30-4-1975, các sĩ quan QLVNCH bị bắt đi tù " cải tạo tập trung", chịu muôn vàn thống khổ trong các trại tù lao động khổ sai. Những người vợ của họ cũng chịu cảnh trăm đắng ngàn cay, nuôi con thơ, mẹ già, chồng tù tội.... trong cái ngục tù bao la do cộng sản dựng lên để nhốt quân, dân miền Nam. Đời sống của họ còn khốn khổ hơn cả những người tù trong trại " cải tạo", cũng đói rách, bệnh hoạn, còn thêm nỗi nhục khi hoàn cảnh đưa họ vào những cảnh đời nghiệt ngã như tác giả Minh Thuý mô tả trong câu truyện thương tâm nói trên. Tội ác " giải phóng miền Nam " của Việt cộng là tội trời không dung, đất không tha! Chúng ta, người Việt tỵ nạn cộng sản trên vùng đất của thế giới tự do , không quên mối hận này, và quyết tâm làm những gì có thể để huỷ diệt chế độ tàn bạo phi nhân mà người cộng sản đang áp đặt trên quê hương Việt Nam.
29/04/202223:26:08
Khách
Miền Nam dưới gót giày của quân miền Bắc xâm lược sau 1975: Những chuyện bi thương không thể quên:

Nhà văn Chu Tất Tiến: "Một câu chuyện thương tâm về một người vợ lính, chỉ vì muốn cho chồng thoát khỏi ngục tù và vượt biên cùng với con, nên đã bằng lòng lấy một tên cán bộ cộng sản với lời hứa là hắn phải cho chồng ra trại. Sau khi người chồng được trả tự do, bà đã chỉ đường cho chồng và con vượt biên. Và đến khi nhận được thư báo là chồng và con đã tới được xứ Tự Do bình an, bà đã uống thuốc độc tự vẫn.

" Vì không có phương tiện thăm nuôi, một số người vợ lính đã phải liều mạng đi buôn lậu mấy chục bao thuốc lá, mấy hộp thuốc đau nhức, nhưng để thoát nạn công an chặn đường kiểm tra, người vợ lính đã phải làm người tình lẻ của tài xế, lơ xe để thoát khỏi cảnh bị công an cướp hết tài sản ".
28/04/202219:59:59
Khách
"28/1/2013- FB Tâm Nguyễn (trang mạng Danlambao) : " Chắc có lẽ tôi vẫn chưa quên một người phụ nữ chồng đi học tập cải tạo, một mình nuôi con nhỏ, thời kỳ bao cấp rất khó khăn mà ai cũng biết, chị phải đi khách để có tiền mua sữa cho con, bị bắt, bị đeo bảng đi vòng vòng phố với dòng chữ: “Tôi làm đĩ”. Xấu hổ hết mực, một tuần sau đó, chị tự tử ". Ngưng trích .

Hãy " đừng bao giờ quên quá khứ, xóa bỏ hận thù , hướng vế tương lai" đối với quân Cộng sản xâm lược quý vị nhé :

Được may mắn thoát chết khỏi Cuộc Thảm Sát Hàng Loạt Người Do Thái Holocaust (bởi chế độ Đức Quốc Xã Hitler) , ông Edward Mosberg phát biểu: " Quên và tha thứ cho cái chế độ tội phạm đó có nghĩa là quý vị đã giết các nạn nhân Holocaust đã chết đó thêm lần thứ hai. Chúng ta không thể để cho họ bị giết thêm một lần nữa . Chúng ta không có cái Quyền tha thứ chế độ tội phạm đó . Chỉ có những người đã chết mới là những nguời sở hữu cái quyền quyết định đó mà thôi . “To forget and forgive would mean you killed the victims a second time,” he said. “We cannot allow them to be killed again. We have no right to forgive. Only the dead can forgive.”
27/04/202205:31:06
Khách
Tội ác của đảng Cộng sản Việt nam thì viết không hết tội dù chẻ hết tre rừng, rửa không sạch tội ác dù tát cạn nước biển !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 495,788
Sang Mỹ, Mị thấy các chùa chiền, Thiền viện như những trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Mỗi cuối tuần các đồng hương có thể tụ về chùa để tu tập, để trò chuyện bằng tiếng Việt, để chia sẻ, để cảm nhận được không khí cộng đồng Việt. Ngày Tết cổ truyền, bà con đồng hương Phật tử xa quê lại có dịp vãn cảnh chùa với những trang trí quen thuộc ngày Tết, có hoa mai, hoa đào. Nhiều chùa chiền và thiền viện còn công phu trang trí cảnh sắc làng quê Việt Nam, để những người con xa xứ tìm chút hương vị quê hương, giúp cho Phật tử thuần thành hay “Phật tử ngang hông” như Mị cảm nhận được thiện ý chan hòa, hoan hỷ. Mái chùa như là nơi chở che hồn Việt. Dù đi chùa để tu học Phật pháp, hay để nương tựa tâm hồn trong những ngày đau khổ chông chênh, hay chỉ đơn giản là ham vui và bớt sân si như Mị thì Mị tin rằng mỗi người khi trở về đều đem theo mình chút niềm vui an lạc trong giai đoạn nhiều bất ổn trên cả thế giới như hiện nay. Mị thấy mình được sống trong môi trường an toàn và tự do...
Một trong những người bạn nối khố của tôi vốn là nhà báo. Sau Giáng Sinh 2021, anh gọi cho tôi nói tôi còn nợ anh ấy bài viết cho số báo Xuân Nhâm Dần của anh sắp trình làng. Tôi cố tảng lờ, “Nợ gì nhỉ?” Bạn liền quát vào máy, “Tôi xin ông. Ông cứ cái tật đánh trống lãng với tôi đấy hả?” Tôi xởi lởi hỏi viết gì bây giờ, bạn liền ra lệnh, “Mùa Xuân, viết về tuổi già chứ còn gì nữa.” Tôi sực nhớ mình có hứa với bạn, nên phải trả cho xong món nợ cuối năm. Lục mãi trong trí nhớ của mình nay đang xuống cấp, tôi bèn chọn ngay việc tản mạn tuổi già của chính mình và của bạn bè đang lưu lạc ở Mỹ, nơi xứ lạ quê người.
Thôi để tôi tả một cuộc hèn hò trên sân khấu trường quay bạn muốn hẹn hò trong nước thì bạn đọc hải ngoại dễ hình dung hơn. Giữa sân khấu là một bức màn được buông xuốn để hai bên không thấy nhau. Bên nhà trai có người hướng dẫn chương trình là đàn ông, bên nhà gái là cô hướng dẫn duyên dáng. Thường thì bên cô gái được mời lên sân khấu trước, sau đó đến bên chàng trai. Cô gái giới thiệu về lý lịch trích ngang của bản thân, nói sơ lược về tình trường mà cô đã trải qua, thể hiện tài năng hay cũng có thể gọi là tài vặt như ca hát, nhảy múa để góp vui với chương trình. Điểm quan trọng nhất là cô nói thẳng ra ý muốn của cô với chàng trai bên kia bức màn về mẫu người đàn ông mà cô muốn hẹn hò.
Chẳng biết tại sao mà từ khi qua Mỹ cho tới nay tôi bị lời nguyền gì mà mỗi năm đều bị bệnh mất mấy ngày, nhẹ thì cảm, sổ mũi nóng sốt, nặng thì bỏ ăn một hai bữa. Còn không thì chạy xe bị người ta vượt đèn đỏ hít đít hoặc húc hông, có lẽ thấy tôi mỗi ngày mỗi hên nên vận bám vào người càng nặng. Năm ngoái trước đám cưới con trai là thằng Dũng thì Covid tới thăm và ở nhà chơi chung với tôi 50 ngày. Năm vừa rồi đám cưới thằng Duy sức khỏe chưa lấy lại được thì bị giời leo đau đến nỗi tôi không bước nổi. Vì cứ bị con bệnh đeo bám như vậy nên thằng Duy là con trai lớn đã thương mà trả hết nợ nhà cho để tôi yên tâm ở nhà nghỉ ngơi cho khỏe.
Trước hết căn cứ vào số lượng người mang họ Nguyễn (họ phổ biến nhất của người Việt) ở trong vùng rồi suy luận ra, ta có thể phỏng đoán được số lượng người Việt. Theo tin từ trang Wikipedia tiếng Việt thì tôi được biết theo thống kê năm 2005 ở Việt Nam người họ Nguyễn chiếm 38% dân số. Dĩ nhiên con số 38% này không phải là con số tuyệt đối có thể đại diện cho bất cứ tập thể nào. Nghĩa là không phải ở bất cứ nhóm người nào người họ Nguyễn cũng chiếm tỷ lệ 38%. Do đó trong ước tính của mình tôi áp dụng con số khiêm nhường hơn một chút đó là chỉ khoảng 1/3 người Việt mang họ Nguyễn.
Sở dĩ gọi là "nghề" vì chuyện trong nhà tôi, ông anh rể là sĩ quan đi "cải tạo", thằng con của anh ấy, là cháu ruột tôi, vào lớp Một, nhà trường gửi về bản khai lý lịch, tên bố tên mẹ và nghề nghiệp. Chị tôi điền lý lịch cho thằng bé, mặc dù lúc ấy chị đang chạy chợ trời, nhưng theo “kinh nghiệm” mấy chị hàng xóm thì không nên khai chợ trời, sẽ bị đánh giá là …tiểu tư sản, con mình sẽ bị trù dập, cho nên dù chẳng hiểu thằng bé 6 tuổi còn thò lò mũi xanh sẽ bị trù dập kiểu gì, chị bèn ghi là “nội trợ” cho an toàn. Còn phần nghề nghiệp bố thì để trống vì không biết khai thế nào. Đến lớp, cô giáo liền điền vào khoảng trống nghề nghiệp của bố nó là... "học tập cải tạo"! Mà nghề này còn sinh ra nhiều nghề khác cho những người tù, nào là chăn lợn, nuôi gà, trồng rau, nấu cám, đốn củi trên rừng. Lần đó tôi theo chị lên trại Thành Ông Năm thăm nuôi anh rể, anh ấy tặng vợ con và các em những chiếc vòng đeo tay, chiếc lược được chạm trổ rất xinh xắn do chính tay anh làm, anh bảo đó là "nghề"
Ai cũng có một thời thơ ấu và thanh xuân riêng của mình. Vậy mà ngày còn nhỏ tôi không bao giờ quan tâm đến tâm tư tình cảm và suy nghĩ riêng của má. Tôi cứ thấy má là của gia đình, là của chúng tôi. Tất cả suy nghĩ, việc làm của má đều dành cho chồng con, cho gia đình này. Tôi đã nhận những yêu thương, chăm sóc một chiều của má như một chuyện đương nhiên. Giờ ngồi nhớ lại hồi nhỏ chẳng bao giờ thấy má gặp lại các bạn học xưa để cười đùa rộn rã nhắc về tuổi thơ như thế hệ chúng tôi bây giờ. Chỉ lâu lâu dì Nghiêm là em ruột của má từ Sài Gòn về là 2 chị em ríu rít như chim và nói toàn tiếng lóng với nhau kiểu như mật mã nghe ngộ lắm. Má tôi và dì cứ cười nói rộn ràng còn chúng tôi thì ngơ ngác chẳng hiểu gì. Chắc thuở còn con gái mấy dì và má nói chuyện với nhau kiểu này để giữ bí mật những chuyện riêng tư, qua mặt người lớn mà hẹn hò, nghịch ngợm đây. Ghê thật! Ai bảo thế hệ xưa hiền hơn bây giờ? Chỉ là họ giấu kỹ và không có mạng Internet hay Facebook để ai cũng biết như ngày nay thôi
Dưới ánh mặt trời như thiêu đốt làm bầu không khí rung rinh, nhảy múa đến lóa mắt, đoàn tù nhân đi chân không, ở trần trùng trục, chỉ mặc độc nhất cái quần xà lỏn, vài người đầu đội các chiếc nón cũ kỹ, rách rưới mà họ lượm được đâu đó, đang mệt nhọc lê thân xác mỏi nhừ sau một ngày lao động vất vả trở về trên con đường đất đỏ nóng hừng hực khiến chân họ muốn bỏng, vai thì đỏ và rát bởi nắng cháy. Hai bên đường, rẫy được tù nhân khai khẩn rộng thênh thang, chạy ngút mắt đến tận bìa rừng chỉ chừa lại những gốc rạ khô cằn sau mùa gặt. Giữa cánh đồng một cây Cầy cháy sạm, còn trơ lại vài nhánh đen đúa, cháy dở, chơ vơ chĩa lên cao như cố chống giữ lấy bầu trời to lớn tạo cho khung cảnh một nỗi buồn thê lương như phận người tù ở trại Đồng Phú này!
Sau nhà tôi là rừng, rừng ngày xưa không nhìn thấy gì ngoài màu lá xanh, những con chim sặc sỡ màu nhưng chúng chỉ cất tiếng hót lẻ loi một mình, không buồn cũng không vui. Những con thú hiền hoà như sóc với thỏ là những kẻ lãng du tử tế. Chúng thấy người không thích mắt khi nhìn chúng nữa thì sóc nhập thiền nơi những hốc cây, những hốc đá ven bờ suối là tịnh thất của thỏ. Trong khu rừng có con suối nhỏ, có đàn vịt trời khi lội khi baydưới chân đồi bluebonnet tượng trưng cho tiểu bang Texas. Mùa hoa rộ tháng tư thì cơ man là người đến chụp hình, xe đậu quanh đồi không đủ chỗ thì người ta lái xe vào xóm nhà đậu tạm. Tôi thích bị làm phiềm kiểu Mỹ vì chỉ có ở Mỹ khi người không quen biết bấm chuông nhà chỉ để xin phép cho họ đậu cái xe trước nhà mình một lát, họ lên đồi chụp vài tấn hình sẽ đi ngay. Tôi hình dung ra những bức ảnh gia đình, tình nhân, bạn hữu của những người tử tế đã làm nên phong cách Mỹ khác biệt.
Tháng 4 luôn nhắc nhớ, chúng ta từ đâu đến đây, chúng ta may mắn hơn người còn ở lại VN, hạnh phúc hơn người bỏ xác trên biển, hãy sống xứng đáng với cái giá chúng ta phải trả mới có ngày hôm nay. Hãy tôn trọng và nhớ ơn đất nước đã cưu mang gia đình chúng ta, QUÊ HƯƠNG THỨ HAI đã đón nhận và giúp đỡ chúng ta, nơi đây là điểm dừng cuối đời của chúng ta và là Quê Hương thật sự của con cháu chúng ta.
Nhạc sĩ Cung Tiến