“Tại sao người Mỹ bỏ miền nam Việt Nam"” Câu hỏi đó cứ tiếp tục quanh quẩn trong đầu óc tôi từ khi tôi có trí khôn và tập cách suy luận theo người lớn.
Ngày miền nam Việt Nam lọt vào tay cộng sản, tôi chưa đầy mười tuổi. Tôi chỉ nhớ loáng thoáng tôi đang chạy chơi với nhỏ bạn bằng tuổi thì tôi bị gọi về. Ba tôi đang đứng lo âu giữa sân nhà, Mẹ tôi đứng cạnh ba tôi không kém phần lo âu, xa xa tôi nghe tiếng ì ầm như tiếng bom đạn. Thế là ngày hôm sau ba tôi khăn gói lên đường. Ông đi đâu" Tôi không biết, nhưng tôi không gặp ba tôi nữa.
Thời gian trôi qua, một năm, hai năm, rồi tới... 13 năm trời không có ba bên cạnh. Tôi không còn nhớ chút gì về ba tôi cả, hoàn toàn không ngay cả giọng nói, đi đứng, thói quen của ba tôi. Tất cả chỉ còn là sự cố gắng hình dung của tôi qua lời kể của mẹ và qua những tấm hình mặc đồ tây của ba tôi (hình ba tôi mặc đồ lính đã bị mẹ tôi đốt hết vì sợ Việt Cộng). Tôi dần dần hiểu là ba tôi đi “học tập cải tạo ” trong ngục tù của bọn Cộng Sản. Tôi cũng không còn thì giờ để mà ngồi nhớ nhung ba tôi, vì tôi phải dằn vặt với cơn đói mỗi ngày. Có ngày mẹ tôi nói tôi chạy ra nhà bác đầu đường mượn ít gạo hay bobo về nấu (vì gia đình nhà bác ấy có con đi vượt biên thoát được qua Mỹ nên có trợ cấp từ Mỹ). Có ngày tôi đạp xe đạp ì ạch chở mẹ tôi qua cầu Phú Nhuận để mượn tiền cô tôi để mua khoai mì cho cả nhà ăn. Cứ thế tôi lớn lên trong nghèo đói và túng thiếu nhưng mẹ tôi dạy tôi không bao giờ làm điều sai trái. Ở trường học tôi học rất khá, nhưng thua kém bạn bè về đủ mọi thứ từ miếng ăn cho đến tấm áo mặc. Những đứa bạn tôi có anh chị ở nước ngoài gởi đồ về, tôi thấy thèm được như chúng. Từ đó tôi thường mặc cảm, rúc vào một xó cho đỡ tủi thân.
Mẹ tôi bán từ từ những món đồ trong nhà để nuôi chúng tôi, ngay cả tới những cánh cửa sổ trên tường cũng được đem bán để gia đình có thể sống qua ngày. Phần chịu cực, phần khổ ngoài đời, phần nuôi ba tôi đi học tập mười ba năm trong trại tù, ngày ba tôi ra khỏi tù là ngày mẹ tôi vĩnh viễn từ bỏ tôi để đi vào thế giới nơi con người không còn thù hằn, không còn chém giết nhau nữa.
Tôi khóc tưởng như hai mắt muốn mù vì từ ngày tôi có trí khôn, chỉ có mẹ tôi là người thương tôi, nuôi tôi và gần gũi tôi nhất. Tôi biết là mẹ tôi đã hy sinh cả cuộc đời của mẹ, ở vậy một thân một mình, giữ danh tiết mà nuôi chúng tôi khôn lớn, trở thành người tốt. Tôi thù hận chiến tranh, thù hận cộng sản đã lấy đi người Mẹ yêu quý của tôi. Rồi tôi lại tự hỏi tại sao người Mỹ bất thình lình bỏ miền nam Việt Nam để đẩy những gia đình như chúng tôi vào cơn khốn cùng này" Không ai có thể giải thích cho tôi thật sự được.
Rồi gia đình tôi may mắn được đi diện HO của ba tôi sang Mỹ. Vì tiếng Anh, tiếng u còn chưa thông lắm, tôi đi làm cho người Việt Nam. Tôi làm chung với Cindy một đứa con lai. Tóc Cindy đen, mũi tẹt, còn cặp mắt và nước da thì Cindy y như Mỹ trắng nên Cindy nhìn cũng rất xinh. Chỗ chúng tôi làm thường tiếp xúc với những khách hàng. Cindy cười giỡn, chọc ghẹo, lả lướt với mọi khách hàng nam nhi. Và nếu có anh nào “cần” thì Cindy cũng sẵn sàng, chỉ cần chàng cho nàng thật nhiều quà và tiền. Rồi dần dần Cindy có tiền, Cindy đi sửa sắc đẹp cho thật giống Mỹ (mặc dù Cindy nói tiếng Mỹ như Mỹ...tho) Cindy thường kể tôi nghe rằng mẹ Cindy có 2 đứa con: Cindy lai Mỹ trắng, còn em Cindy lai Ấn Độ. Từ đó tôi hiểu rằng mẹ Cindy làm nghề gì để sống qua ngày. Có phải chăng đây là những đứa trẻ của chiến tranh. Cũng chỉ vì chiến tranh và môi trường sống đã tạo cho Cindy cách sống giống mẹ của Cindy" Tôi không trách Cindy, mà chỉ thấy thương hại cho Cindy vô cùng, vì Cindy đã không may mắn có được người mẹ như tôi, để làm tấm gương sáng cho con cái noi theo.
Tôi vừa đi học, vừa đi làm. Sáu năm sau ngày tới Mỹ, tôi lấy được bằng Đại Học Mỹ. Tôi bắt đầu vào làm hãng Mỹ và làm bạn với một số người Mỹ. Một trong số những người bạn Mỹ của tôi, Angela mời tôi về tham dự tiệc sinh nhật của cô ta. Lúc tôi tới đã có rất đông người trong phòng khách nhỏ nhắn của nhà Angela. Angela giới thiệu tôi với người nhà của cô ta. Người làm tôi chú ý nhất là người anh của Angela, anh John.