Hôm nay,  

cổ tích trên sông…

04/02/202200:00:00(Xem: 2612)
Tranh-minh-họa_Cao-Bá-Minh
hình minh họa - tranh Cao Bá Minh
 
Mỗi năm tết đến, không riêng thời tiết, không gian đầy hoài niệm vì sắp thêm một năm nữa đi qua, lòng người cũng bâng khuâng trước tương lai năm mới sắp đến, luyến tiếc mất còn trong năm cũ sắp hết và đặc biệt là không bao giờ trở lại. Rồi năm mới đến sẽ ra sao với tuổi đời ngày càng chồng chất những lo toan, muộn phiền. Thế là hoài niệm cứ tuôn chảy, nhìn về tương lai như bầu trời xám bên ngoài khung cửa. Còn chăng những vui buồn đã qua, những buồn vui không mong sẽ đến.
  
Nhớ khi còn nhỏ thì đến hè cũng có cảm giác tương tự như tết khi kết thúc năm học, nhưng sau vài tháng hè sẽ là năm học mới, gặp lại bạn bè là quên hết ưu tư về sự chia tay nào cũng buồn, nhưng chia tay bạn bè mấy tháng sẽ gặp lại, khác với sự chia tay năm cũ vì thời gian đi qua sẽ không trở lại. Hiểu được như thế là tuổi vô tư lặng lẽ hết để tuổi biết buồn về, văng vẳng bên nhà hàng xóm có tiếng hát bay sang, “trời sắp tết hay lòng mình đang tết…” Ở mỗi độ tuổi có cảm nhận khác nhau, tuổi thơ chỉ biết vui được nghỉ học, về quê ăn tết với thịt cá, bánh trái ê hề, được uống nước xá xị hiệu con nai thả cửa là vui nhất tuổi thơ, và vui ngất ngây hơn là tắm sông, bắt dế đã đời. Đến tuổi biết rung động trước ai đó thì trời vẫn sắp tết nhưng lòng mình có đang tết hay không đã là chuyện khác rồi, tùy vào quan hệ trong năm cũ sắp hết đã tốt đẹp hơn, thân thiết hơn hay ngược lại.
  
Rồi tuổi đã có gia đình. Sau một năm làm ăn khấm khá, gia đạo bình yên, những ngày giáp tết cũng có tết ở trong lòng là cảm giác mãn nguyện. Và ngược lại là những năm làm ăn thua lỗ, tới tết phải xoay sở đầu này lấp đầu kia cho tạm ổn qua năm tính tiếp. Đến những cái tết xa quê thật hụt hẫng, từ nơi xa tới mất phương hướng trong cuộc sống xứ người, khó định hướng quê nhà ở phương nào vì khoảng cách quá xa thì tết vẫn đến. Trời sắp tết vẫn mang mang những vui buồn lẫn lộn, lòng đang tết vẫn hoài nghi chính mình là tự an ủi hơn là được vui. Nhưng đến một lúc nào đó, người ta đi qua quá nhiều những cái tết vui buồn lẫn lộn mới biết cái tết nào là tết ở trong lòng. Tết ở trong lòng vượt khỏi cảm xúc vui hay buồn với thực tại vì nó thực sự là tết. Đời người dường như có được một cái tết ở trong lòng là đủ vì cái tết ấy ngoài ý nghĩa cội nguồn, nhắc mình là ai, đang sống thế nào, nơi đâu. Dù đang vui hay buồn thì cái tết ấy vẫn ở trong lòng với niềm hoan hỉ nhất, khác với những cái tết thành công hay thất bại trên đường đời, được qúy mến hơn hay ra rìa trong tình cảm con người luôn không ổn định.
  
Có một chiều giáp tết khi sắp ra trường, tôi ngồi ở quán cà phê vườn dưới dạ cầu Ông lớn, vạt nắng cuối ngày hắt xuống ngã ba sông màu vàng sa di, cái máy cassette cũ trong quán đang chạy những cuộc băng cũ (nhão) nên tiếng hát càng thê lương với những xuân khúc thường nghe trước ‘75. Tôi ngồi nhìn lục bình trôi vô ưu, lòng tự hỏi giề lục bình kia có buồn khi nó được sinh ra tức là tách ra từ một giề lục bình lớn hơn bởi gió mưa, vì từ đó nó sống đời nước chảy hoa trôi. Giề lục bình nhỏ nhoi bắt đầu một phận đời lênh đênh trên giòng vô định. Chắc chắn có lúc nào đó trong đời nó đã mạnh mẽ lên, xanh um, rồi ra hoa màu tím để làm đẹp cho đời. Nên tôi buồn cho sự kết thúc của nó vào một chiều giáp tết; giề lục bình xác xơ, lặng lẽ, âm thầm chìm xuống đáy sông sâu, nơi nó không hề biết trước trong định mệnh của vạn vật. Tôi cũng sắp hết phải đi học, qua tết tới hè là ra trường. Đi nhận nhiệm sở ở đâu cũng chưa biết, mà cũng chẳng cần biết như giề lục bình không biết nơi nó được sinh ra và nơi nó vừa từ giã cõi đời là đâu, ai là người đưa tiễn nó? Đó là cái tết ở trong lòng tôi đã nhiều năm. Ăn tết với giề lục bình.
  
Đến một chiều cổ tích trên sông. Khi cô giáo có phần chơi thân với tôi trong khu tập thể giáo viên mà tôi đang sống. Cô chắt chiu, hà tiện những đồng lương ít ỏi từ bao giờ để có thể mua được từ nhà học trò chục trứng vịt, mấy kí nếp, con gà sống… Phụ huynh học sinh thường nửa bán nửa biếu cho thầy cô về ăn tết nên giá rẻ lại được ngon hơn mua chợ. Rồi niềm vui háo hức trong mắt lệ cho người là tôi từ chối không cùng về Sài gòn với cô. Nghĩa là tết không gặp. Tôi ở lại trường.
  
Chiều ba mươi tết yên vắng trong khu tập thể vốn đầy ắp tiếng cười của thầy cô giáo trẻ càng tịch liêu. Tôi nghĩ đến những người lính ngày xưa không về nhà ăn tết, chắc họ buồn lắm! “Con biết xuân này mẹ chờ tin con… ; đàn trẻ thơ ngây ngồi chờ mong anh trai sẽ đem về cho tà áo mới ba ngày xuân đi khoe xóm làng…” Sao hoà bình rồi, những lớp trẻ lớn lên vẫn mịt mù tương lai như khói lửa thời chiến tranh. Các anh tôi không còn là những người lính xa nhà mà họ đã thành những kẻ chiến bại, đang biệt xứ hay tù đày không biết đến bao giờ.
  
Một chiều giáp tết cô độc mà tôi thường hoài niệm là chiều cổ tích trên sông. Khi không còn chịu nổi sự cô đơn trong khu tập thể chỉ còn lại một mình. Khi nhìn kia là ngọn đèn bình ắc-quy với bộ bài mà chúng tôi thường ngồi chặt hẻo đợi đò vì mỗi ngày chỉ có một chuyến đò về thành phố sẽ cặp cầu gỗ rước khách lúc hai giờ đêm. Đứa nào ngủ quên thì khỏi về nhà nên anh em cứ thường ngồi chơi bài tới hai giờ sáng để ra đò.
  
Tôi bước sang phòng nữ để xem lại cửa nẻo cho các cô giáo trước khi tôi đi bụi tới sáng trong xóm dân cho đỡ buồn. Cái nón cũ của cô Nhiên trên tường còn lan tỏa linh hồn thiếu nữ đã chết vì vượt biển. Nhưng những cô giáo chung phòng nữ chỉ biết thương con Nhiên bỏ nhiệm sở, nên treo cái nón cái bang của Sếu-Nhiên để nhớ cây cười có hạng với những chuyện nói nhỏ cười to… Vài thầy giáo biết cô Nhiên đã qua đời nhưng không ai nói ra vì sợ các cô bên phòng nữ sợ ma, đem đốt cái nón với mùng mềm của cô Nhiên thì quá tội cho một vong linh còn chưa kịp hiểu vì sao tôi phải chết mà đã chết?
  
Tôi đi khi hoàng hôn đã đỏ ối trên sông Soài. Nỗi bâng khuâng nhỏ nhoi trong lòng, trong khu tập thể chật hẹp đã có không gian thoáng rộng ngoài bến sông nên lòng thấy nhẹ nhõm hơn. Xa xa, chiếc ghe có mui ngoài sông lớn đang chơi vơi năm hết tết đến. Nó chỉ còn là hình bóng của chiếc thuyền con trên sông trôi. Một chiếc bóng nghĩa đen khi không nhận dạng được người chèo trong chiều chạng vạng; và một chiếc bóng theo nghĩa lẻ loi đang bơi trên dòng nước ngược, dòng cơm áo nhọc phiền…
  
Người chèo ghe phất khăn rằng chào tôi, nên tôi khoát tay chào lại vì có thét lớn cách mấy thì gió sông Soài cũng không nghe được, nhưng chiếc ghe quay mũi vô bờ nên tôi dừng lại đợi. Trong chạng vạng sông nước hữu tình, dáng người phụ nữ chèo ghe in lên nền trời tuyệt phẩm của tạo hoá thật đẹp. Đó là chị Mười, người phụ nữ cao, gầy, cỡ ba mươi tuổi. Làn da ngăm của chị mê hoặc, sự rắn chắc của cơ thể do chèo ghe quanh năm từ mở mắt tới đi ngủ. Đôi mắt sâu thăm thẳm nỗi niềm của chị như thôi miên. Chị thường mặc quần đen, áo bà ba đen, trên cổ lúc nào cũng có cái khăn ca-rô trắng đen, khi lạnh thì quấn lên đầu như người đi tế thần linh.
  
Tôi quen biết chị, đã gặp vài lần, ăn cơm chung với chị cũng đôi lần ở nhà một học trò mà mẹ của em ấy như người bạn thân của chị Mười, nên chị thường ghé ăn cơm khi ngang qua nhà bạn. Tôi không nói chuyện nhiều với chị nhưng giữa tôi với chị có sự thầm hiểu nào đó, mà lắm lúc tôi tin là sự che giấu thân phận có tài tình cách mấy thì cũng có lúc sơ hở bộc lộ bản thân.
  

Nhưng những bữa cơm ấy cũng chỉ qua loa chuyện thường ngày trong lúc ăn. Chuyện đàn bà còn lại sau bữa cơm của chị với mẹ đứa học trò thường ở dưới bếp; tôi với cha đứa học trò thường lên nhà trên uống trà, hay uống cho hết chai rượu đã mua.
  
Đây là lần đầu tiên tôi gặp riêng chị,
  
Khi chiếc ghe đã vào bờ, chị cười tươi như bậu mới về, “Thầy có nhìn ra tui không? Tui ngoài sông nhìn vô cũng biết là thầy…”
  
“Tôi nhìn ra sông chỉ thấy chiếc ghe, chứ làm sao biết ai đang chèo. Sao chị nhìn hay vậy?”
  
“Thầy coi. Ở đây đàn ông có mình thầy tóc dài. Nhìn là biết liền hà…”
  
“Thì ra… Chị đang về nhà hả, kịp đón giao thừa không”
  
Bỗng gương mặt chị tối sầm xuống như trời chuyển mưa. Bao vui tươi, hớn hở, biến đi nhanh như gió sông Soài. Đôi mắt người phụ nữ Miên cũng xài ngôn ngữ chung của phụ nữ là dễ rươm rướm. Chị nói nghẹn ngào, “Phải như tui có nhà… để về.”
  
Đúng là chiều giáp tết, chữ “về” đè nặng tâm tư mọi người. Vậy chữ “ở” có chia sẻ được chơi vơi trong lòng người thương hồ đơn thân độc mộc. Sự chơi vơi trong lòng tôi, không cách gì đến được nơi muốn đến vì cũng không biết được là mình muốn đến đâu trong cảnh tù túng của ý thức, nghèo túng của đời sống đến không đủ tiền tàu xe để về nhà. Biết là vay mượn không khó, nhưng sống đời vay mượn đến bao giờ?
  
Tôi bước xuống ghe không suy nghĩ, đạp cành mắm đẩy mũi ghe ra…
  
“Chèo đi chị Mười.”
  
“Thầy muốn đi đâu?”
  
“…cùng trời cuối đất.”
  
“Sao thầy không về nhà ăn tết?”
  
“…”
 
  “…Chị dạy tôi chèo đi. Tôi chèo chị đi chơi cho đỡ buồn. Đi đâu cũng được vì tôi đã nghỉ dạy tới qua tết nhưng không muốn về nhà. Không ai bắt tôi ở lại trường, và tôi cũng không biết đi đâu nữa…”
  
Chị không nói gì thêm. Không dạy tôi chèo. Chỉ cho ghe ra chừng gần giữa dòng thì xổ buồm - là miếng bao cát bằng ny-lon của lính ngày xưa, tấm buồm vá chằng vá đụp hình tam giác có khung tre, căng trên cây tre như cây nêu vừa được dựng lên để hai kẻ cô đơn cùng ăn tết. Tôi nghĩ vậy trong im lặng, chắc chị cũng hiểu vậy trong linh tính nên chị cũng im lặng, dõi mắt về quá khứ thì phải. Phía chân trời đỏ bầm của ngày tàn, có một gia đình hoàng tộc bên Cao Miên, bị Pôn-pốt chặt đầu thả sông không chừa một mạng. Nhưng xảy đứa bé gái còn vương nợ trần nên từ đó điêu linh. Giai nhân phiêu bạt chiều giáp tết đang ngóng về cố thổ trong bộ dạng thương hồ làm mặt trời đỏ ối trên sông cũng hổ thẹn mà trốn biệt! Sự che giấu thân phận của chị nhưng cốt cách hoàng tộc vẫn nhìn ra được trong bộ dạng thường dân của nàng công chúa không chừng, vì tôi thấy trên ghe có bàn chải đánh răng với cây kem ngoại quốc chứ không phải hàng “nhu yếu phẩm” của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Trong cái xứ sáng ra chỉ thấy người súc miệng bằng nước lu đã là văn minh, thầy giáo, cô giáo thì đánh răng bằng muối bọt là chuyện thường ngày ở huyện. Ngoài ra, trong giao tiếp ít ỏi của chị với người trên bờ là gia đình đứa học trò. Tôi có lần thấy chị thiếu từ Việt để diễn tả nên chị đã dùng tiếng Pháp lẩm bẩm trong miệng để truy ra tiếng Việt như tra tự điển. Làm cho tôi tin tâm sự của chị đã kể với mẹ của đứa học trò mà có lần bà đã kể lại cho tôi nghe trong sự bí mật chỉ để giải thích việc bà thương chị Mười như chị em ruột của bà vì bà cũng lâm vào hoạn nạn tương tự như chị hồi 30 tháng 04 năm 1975… Chị Mười thì bị pôn-pốt truy sát khi người ở, bà vú của gia đình chị không che giấu cho chị được nữa nên buộc chị phải trốn sang Việt nam, sống nghề thương hồ là chọn lựa thích hợp nhất cho người muốn lánh mặt.
   …
  
Trời nổi giông lên, mây đen kéo về rền tiếng sét. Những hạt mưa đã lắc rắc trên mui ghe, cũng bằng khung tre, căng ny-lon bao cát của lính ngày xưa. Chị hối hả cho ghe vô bờ, “Thôi thầy lên bờ, về nhà nghỉ nha. Dưới ghe lạnh lắm. Mà mui ghe cũng bị dột nữa…”
  
Ngần ấy tả tơi giáng lên thân người cô độc nên tôi không lên bờ. Chị neo ghe tạm dưới dạ cầu Cá sấu một hồi cũng không xong vì ván lót cầu mục gãy đã nhiều, mưa trút không thương. Gió vi vu buốt cuộc đời buồn lại thêm tiếng mưa về đêm oai oán, hay những linh hồn chưa chịu ngủ yên bên bờ lau sậy này đang đón giao thừa. Tôi nói chị Mười lủi ghe vô đám dừa nước gần đó, coi như đậu ghe trong căn nhà lá rồi còn gì?
  
Chị khen tôi thông minh nên chị cũng vâng lời như một học sinh ngoan. Quả thật chiếc ghe núp dưới vòm lá dừa dầy đặc nên chuyện mui ghe bị dột không làm khó nữa. Chỉ còn hai cái bao tử kêu chiều chưa có gì bỏ bụng trên chiếc ghe là ghe thương hồ. Nào là khoai lang, bí đỏ, dừa khô, cá mắm, cá khô, bắp chuối, chuối nải, chuối khô… không biết có bao nhiêu thứ trên ghe.
  
Không ngờ chị cũng đang đợi tôi mở lời để chị bớt ngại đãi tôi một bữa ăn trên ghe thương hồ. Mà tôi thì có cái tự nhiên của tuổi trẻ,
  
“Chị Mười ơi! Trên ghe có gì ăn được không? Tôi đói bụng quá rồi!”
  
“Nếu thầy không ngại. Thì tui nấu cơm cho thầy ăn?”

   “Nấu đi. Sao nãy giờ không nấu! Tôi thích nấu ăn trên ghe lắm. Lần, con Lan, thằng Đức, thằng Tâm, con Hạnh… học trò, tụi nó nấu cháo cá kèo với nước dừa trên ghe cho tôi ăn. Tôi nhớ hoài vì ngon lạ lùng…”

   “Thầy nói thiệt hả? Vậy mà nãy giờ tui ngại nên không dám mời thầy ăn cơm.”

   Thật khó quên được sự xoay trở tài tình của chị Mười trên chiếc ghe thương hồ cũ kỹ, nhỏ nhoi. Loáng một lát chị đã nấu được nồi canh chua xịa với bạc hà, cà chua, me trái, ớt trái, giá,… Con xịa là một loại nghêu biển giống con nghêu trắng nhưng to hơn, vỏ nó nâu, ruột nó đen hơn, nhìn không đẹp mắt bằng nhưng ăn ngon ngọt hơn nghêu trắng. Cơm thì nồi cơm nguội có sẵn. Chừng ăn hết nồi cơm này mới nấu nồi cơm khác chứ không nấu theo từng bữa như ở trên đất, ở nhà. Chị luộc hột vịt lộn, chiên khô lóc để uống rượu lậu. Loại rượu đế lạnh vì chị cột đến mấy bình dưới lườn ghe. Khi bị công an chặn bắt rượu cấm thì chỉ tháo mối dây dù chỗ cột chèo là mấy bình rượu vô chủ dưới sông. Bọn công an biết mánh khoé của dân thương hồ nhưng làm lơ để chúng vớt sau khi cho người chủ ghe bị khám xét được đi.

   Bây giờ thì chị kéo lên mấy bình nướt mắt quê hương, tháo một bình, đưa lên ghe đãi ông thầy chưa dạy chị một chữ mà thọ giáo hơi nhiều về cách nấu ăn trên ghe của chị. Chiếc ghe tròng trành do quá nhỏ bé với hai người và hàng hoá linh tinh. Dọn được chỗ ăn cơm đã mừng. Ánh đèn dầu lung linh chị đẹp não nùng như mưa chiều kỷ niệm.

   Ngồi nhậu sau khi ăn cơm nên tắt đèn dầu để tiết kiệm. Ngọn đèn bão lu lu, khi tỏ khi mờ theo những lọn gió tọc mạch. Lần đầu tiên tôi được ăn con xịa trong nồi canh chua dư vị một đời. Cũng là lần đầu uống rượu đế bằng cái vỏ trứng hột vịt lộn. Thì ra sao chị nói lạ, “Thầy ăn hết một cái trứng trước đi để lấy ly uống rượu!”

    Mưa ngọt ngoài trời cho lòng tôi ấm mãi trong chiếc thuyền không bến. Nên suốt phần đời còn lại từ đó về sau cứ nhớ tiếng còi tàu lúc hai giờ sáng. Chị Mười đánh thức tôi, đưa tôi ra bến đò, dúi vào tay tôi cuộn tiền thương hồ cơ cực của chị, “thầy cầm chút, tấm lòng của tui gởi thầy mà đi đò, xe về nhà. Dù lòng thầy không muốn ăn tết thì cũng phải về nhà…”

   Tôi nắm bàn tay chai xạm vì chèo ghe của chị, lời cảm ơn không nói ra được nên nghẹn ngào quay đi. Hơi ấm của cái mền rách bươm nặng mùi tóc chị còn mãi trong tâm khảm theo dòng đời trôi mênh mang nên trời giáp tết lại nhớ đến cái tết ở trong lòng đã bao năm không về lại bến sông xưa.
 

Ý kiến bạn đọc
09/02/202221:45:19
Khách
Viết truyện / tùy bút như vầy là đạt đạo! Kính cảm ơn tác giả.
07/02/202210:42:35
Khách
Đọc được câu chuyện ngắn (tuỳ bút) thật cảm động và buồn, không rõ tên tác giả, nhưng thấy tên của họa sĩ Cao Bá Minh, người đã cùng làm việc chung với tôi ở SĐ1 KQ ở Đà Nẵng trước năm 1975. Tôi rất muốn được liên lạc lại với CBM. Xin quí vị giúp tôi nếu không có gì trở ngại. Xin cám ơn trước. Hiện tại tôi đang sống ở Úc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 496,129
Ngày ban tổ chức làm lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ, tôi và ông xã xem qua hình ảnh, và vài ngày sau được xem cả chương trình qua đài SBTN mà một thân hữu gửi link. Buổi lễ trang trọng, ấm cúng, phần ca nhạc là những nhạc phẩm giá trị được trình bày qua những tiếng hát có nội lực. Tôi được thấy những khuôn mặt xưa nay chỉ biết tên qua các bài dự thi, được biết thêm nhiều điều rất thú vị. Thấy tôi ngẩn ngơ tiếc nuối, ông xã tôi lại… khơi mào: - Lần trước em gửi chục bài, vậy lần này còn …ý tưởng gì để dự thi nữa không? Tôi ỡm ờ: - Dĩ nhiên là vẫn còn, anh...đợi đấy...!
Không biết gọi những cái Tết tại Mỹ là “Tết Ta trên đất khách” có thật sự chính xác hay không khi thời gian tôi sinh sống tại đây đã vượt qua thời gian tôi ở quê nhà, nhất là khi mình đã nhận nơi này làm quê hương thì sao lại có thể gọi đây là đất khách? Nhưng thôi cứ tạm gọi như thế để phân biệt với những cái Tết tôi được đón tại quê nhà.
Đã từ lâu, tôi thường lấy ngày nghỉ để ở nhà suốt từ Giáng Sinh qua năm mới, Tết Việt cũng nghỉ ở nhà, dù chẳng làm gì hay phải đi đâu? Lý do nghỉ chỉ đơn giản là đi làm hoài sẽ hết việc cho người khác. Nhưng ở nhà, ở không lại hay nhớ nhà, nhớ quê với thời tiết, không gian cuối năm thường gợi nhớ. Biết nhớ nhiều không phải là tốt, nhưng quên hết liệu có phải là quên hay cố quên tức là nhớ nhất, nhớ nhất tức là quên thật rồi. Nhớ câu thơ của Bùi tiên sinh, “Uống xong ly rượu cùng nhau/ hẹn rằng mãi mãi quên nhau muôn đời”. Câu thơ lý giải thế nào là tri kỷ, tri âm hay nhất mà tôi từng đọc được. Nhưng nhớ tri kỷ khác với nhớ nhà, nhớ Tết, nhớ quê. Người ta, ai cũng cần một nơi để về thì đó chính là nhà mình, quê mình. Ai cũng có đặc thù văn hoá của dân tộc mình thì đặc thù văn hoá của người Việt là Tết, nên nhớ Tết là cảm giác chung của người Việt xa quê chứ không riêng gì ai.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Hai năm đại dịch tác giả ngưng bút ít viết, quay trở lại tác giả gởi một lúc ba bài đầu năm 2022 - Mong tác giả năm Nhâm Dần thăng tiến nhiều hứng khởi viết nhiều, viết khỏe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Sau gần hai năm đại dịch COVID-19 chúng tôi bị giới hạn đi chơi nhưng nay Minnesota được thả lỏng hơn và kế hoạch đi du lịch lại được bàn đến (lúc này Omicron chưa xuất hiện). Ngay lúc đó khoảng mùa xuân năm 2021 Hãng Hỏa Xa Hoa Kỳ Amtrak quảng cáo hạ giá vé xe lửa vì số hành khách giảm nguyên do chính là đại dịch COVID-19 gây ra. Vé đi 10 chuyến trong một tháng chỉ mất 299 đô la hạng bình dân (coach). Chúng tôi không bỏ lỡ dịp may hiếm có này nên chụp ngay cơ hội làm một chuyến khám phá nước Mỹ bằng cách cưỡi con ngựa sắt vĩ đại vì dân Mỹ gọi xe lửa là “great iron horse”.
Tính đến đầu năm 1977, con số người Việt định cư tại thành phố Wichita đã đạt con số khoảng trên 1200 người, trong số này đa phần là tái định cư, tức là rời bỏ gia đình bảo trợ người Mỹ, hoặc thay đổi từ tỉnh lẻ về thành phố lớn (chưa kể số người tị nạn Cao Miên, Lào và Hmong), hoặc từ tiểu bang khác do bạn bè lôi kéo đến. Để tiện lợi cho việc loan tải thông tin đến người Việt trên toàn tiểu bang, người viết thực hiện bản tin mỗi tháng một lần mang tên Thông Báo. Bản tin được đánh máy lên giấy stencil, đánh dấu, rồi quay rô-nê-ô để in thành nhiều bản. ( phương tiện ấn loát ngày xưa không tân tiến như ngày nay, còn in tại nhà in thì tốn rất nhiều tiền và phải in từ 2000 bản trở lên).
Mít vàng, xoài đủ ngọt ngây / Đường xa không thể đến đây, để nhỉn / "Phây-bút"*, xin gởi ảnh hình / Người trèo, người hái... "bình bình"**, còn nguyên.
Dù những cơn gió lành lạnh cuối đông vẫn đang chờn vờn trên những ngọn cây, nhưng không khí của mùa xuân hình như đã bắt đầu man mác trong không gian. Bên cạnh những nhánh cây khẳng khiu trơ trụi đã có một vài búp lá xanh non đâm chồi nẩy lộc .Vạn vật như đang chờ đón những làn gió ấm cho những đóa cúc vàng tươi rực rỡ , cho những cánh mai nhẹ nhàng rung trong nắng sớm. Mùa xuân đã hiện hữu nơi đây để lòng mình vui như trẩy hội và theo truyền thống, các bạn hãy cùng tôi khai bút đầu năm, bạn nhé .
Tác giả Lê Đức Luận lần đầu tham dự VVNM với bài “Ngẫm ra mới thấy thèm”. Tốt nghiệp Khóa 1 Trường ĐH/CTCT/ Đà Lạt. Trước năm 1975: Sĩ quan, làm việc trong Ủy Ban Binh Thư - Tổng Cục/CTCT/QL VNCH – Sài Gòn. Sau năm 1975: Bị “Tập trung cải tạo” 7 năm. Sang Mỹ năm 1986 -Thỉnh thoảng viết bài đăng trên các Đặc San: Ức Trai, Biệt Đông Quân, Chiến Sĩ Cộng Hòa. Sau đây là bài tham dự VVNM mới nhất ông viết về chuyện đời thăng trầm của người đàn ông từ Việt Sang Mỹ trở lại Việt Nam.
Nhạc sĩ Cung Tiến