Hôm nay,  

Má Tôi

09/05/201400:00:00(Xem: 9454)

Tác giả: Nguyễn Thị Hoà Nam
Bài số 4207-14-29617vb6050914

Chủ Nhật, 11 tháng Năm 2014 sẽ là ngày lễ Mẹ, xin mời đọc bài viết về bà mẹ của của 11 anh chị em. Tác giả Nguyễn Thị Hoà Nam đã dự Viết Về Nước Mỹ từ Tháng Sáu 2013 và sau đây là bài viết thứ hai của bà.

* * *

Những gì tôi biết về má tôi không nhiều, nhất là thuở nhỏ của bà. Bà là người không thích kể lể. Cũng chưa hẳn là vậy. Có lẽ do tôi không biết quan tâm, hỏi han, hay thắc mắc. Nói chính xác là lúc bà còn sống, tôi thương bà chưa đủ. Thuở nhỏ thì thương chơi, thương học, lớn lên thì thương công ăn, thương việc làm, rồi thương chồng, thương con. Bây giờ, sau hơn ba mươi năm làm mẹ của ba đứa con, tôi mới thực sự thấy thương má tôi, muốn biết nhiều hơn về má, thì bà đã không còn. Nhớ má tôi, tôi chỉ còn biết nhớ chuyện xưa, chuyện tuy rất xưa nhưng vẫn nhớ.

Bà ngoại tôi mất rất sớm, khi má tôi mới lên ba. Ông ngoại tục huyền. Bà ngoại nhỏ không con nên bốn anh chị em má tôi tuy không đến đỗi chịu cảnh mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời mẹ ghẻ mà thương con chồng, nhưng vẫn không sao có được tình cảm thiêng liêng của người mẹ đẻ. Rồi bà ngoại nhỏ cũng mất sớm. Má tôi mồ côi mẹ lần nữa trước khi có chồng.

Ông ngoại tôi theo đạo Cao Đài. Vì vậy, má tôi hồi nhỏ có lên Toà thánh Tây Ninh ở một thời gian. Bà đã được người trong Toà Thánh dạy đọc, dạy viết. Cho nên, ở làng quê nghèo gần 90 năm trước, không có trường học, mà má tôi cũng biết chữ. Bà biết chữ vừa đủ; để có thể dùng phấn ghi notes trên cánh cửa tủ những gì cần nhớ; để sau nầy, khi chúng tôi đã trưởng thành, má tôi bắt đầu nhàn hạ, đã đọc đi đọc lại mấy cuốn Truyện Kiều, Đông Chu Liệt Quốc, Ngàn Lẻ Một Đêm, Phong Thần, Thuỷ Hử, Tam Quốc Chí, Đau Đớn Phận Nghèo..., mà bà đã gần như thuộc lòng nhưng vẫn thích đọc; để, theo lời chị tôi kể, má tôi dùng than đen viết lên mo cau trắng, dạy mấy chị tôi học đọc học viết, vì thời ấy, quê tôi vẫn chưa mở trường. Bởi vậy, khi có trường - cái trường đầu tiên được làm toàn bằng tre và lá mía, có 2 phòng học, mà tôi vẫn còn nhớ - mấy chị tôi không cần học lớp 1 nữa, mà vô thẳng lớp 2, vì đã quá lớn và đã biết chữ. A, B, C thời đó đọc là a, bê, xê. "Xê ra. Nhớ chưa?", má tôi dạy chị tôi cách nhớ chữ C như vậy. Còn con nít thì cứ hay nghêu ngao, a bê xê cò, ăn cắp bánh bò bỏ túi bành tô. Lắm khi chị em tôi nhắc nhau về má, luôn thắc mắc một điều, mà không ai có thể giải thích, má tôi mồ côi mẹ từ lúc còn nhỏ, sao bà tốt và giỏi tới như vậy?

Ông ngoại tôi có chia cho má tôi một mảnh đất nhỏ. Sau khi cưới nhau, ba má tôi cất nhà trên đó, rồi trồng cau, trầu, rau cải và đủ loại trái cây. Má tôi tuy không đi làm hãng xưởng hay ruộng rẫy, nhưng vừa chửa, đẻ, vừa cơm nước, chăm sóc, giặt giũ cho anh chị em chúng tôi, vừa lo vườn tược, rồi thu hoạch, đem bán lấy tiền, cũng cực khổ vất vả lắm. Hái măng cụt thì dễ, vì cây măng cụt không có kiến vàng, thân có nhiều nhánh, dễ leo, dễ đứng, trái măng dễ hái. Nhưng tội nghiệp nhất là lúc má tôi hái chôm chôm, kiến vàng đỏ cây. Má tôi bắc thang leo đứng trên cây, một tay cầm kẹp hái trái, còn một tay phải vuốt lia vuốt lịa lũ kiến vàng bu cắn. Mấy chị em tôi sau nầy vẫn xốn xang khi nhắc lại với nhau hình ảnh đó.

Rồi cứ vài hôm ba tôi bắc thang leo hái trầu một lần. Trầu hái xong được đổ một đống lớn trên bộ ván, má tôi phải ngồi liễn, có nghĩa là xếp 4 lá thành một, hai lá lớn ở ngoài, hai lá nhỏ ở giữa, rồi xoay tròn trong thúng, sáng hôm sau gánh đi chợ Bình Dương bán. Cực vậy đó mà chị tôi kể, có lần má tôi gánh trầu lên chợ, đứng đã đời, không ai mua, gần trưa, chợ bắt đầu vắng, má tôi phải đem lại cầu Đúc, ở ngay sát chợ, đổ xuống sông, rồi móc tiền túi ra, mua thức ăn, gánh về. Má tôi vui vẻ, nhưng hiền khô, không lanh lợi, không biết chào mời nên không bán buôn gì được hết. Từ đó, má tôi không dám gánh đồ lên chợ bán nữa, má bán trầu cau và cả trái cây cho dì Ba, chị ruột của má, một người to lớn dềnh dàng, tuy không biết chữ nhưng miệng bằng tay, tay bằng miệng. Dì Ba sống bằng nghề buôn bán. Dì đến những nhà có rau cải, trái cây, như nhà má tôi, mua với giá rẻ rồi đem lên chợ Bình Dương bán lại kiếm lời.

Cũng có lúc má tôi xây lò tráng bánh tráng để bán kiếm tiền phụ thêm với lương thầy giáo của ba tôi. Má tôi ngồi tráng thì mấy chị tôi phải đội liếp đi phơi. Tóc mấy chị tôi hồi nhỏ hớt ngắn kiểu con trai, thỉnh thoảng, đội liếp bánh tráng, bánh tráng bị tóc chọc lủng, còn tóc thì dính bê bết bánh tráng. Rồi má tôi nuôi heo nữa. Thời đó má tôi nuôi heo cho ăn cám độn thêm cây chuối. Chuối chặt lấy quày xong, còn thân, xắt mỏng, rồi bỏ vô cối giã nhỏ, trộn vào cám cho heo ăn. Má tôi tráng bánh, nuôi heo để tăng thu nhập. Vẫn chưa đủ sống, má tôi còn phải tiết kiệm, tính toán dữ lắm. Hồi đó gia đình tôi chỉ ăn sáng bằng cháo trắng với đậu phọng rang muối hay dưa gang muối xắt mỏng chiên lên. Muốn tiết kiệm tiền, mỗi năm, vào mùa đậu phọng, má tôi đến tận gò trồng đậu, mua đậu mới nhổ, đem về, rửa sạch sẽ, phơi khô, cất đi. Khi nào rang mới đem ra lột. Dưa gang cũng vậy, đến mùa, má tôi đến tận ruộng dưa, mua, gánh về, rồi tự muối. Đậu phọng, dưa gang mua như vậy thì giá sẽ rất rẻ so với giá chợ. Tương hột má tôi cũng tự làm. Tưởng tượng đi, má tôi đã tiết kiệm được biết bao nhiêu tiền từ những tính toán như thế. Cũng tội nghiệp mấy chị của tôi, má tôi cực bao nhiêu thì mấy chị tôi cũng cực gần như bấy nhiêu. Mấy chị tôi chỉ có thời gian học bài vào buổi tối. Còn chúng tôi, anh Tám tôi, tôi và ba thằng em, còn nhỏ, lại có nhiều chị lớn nên sướng lắm, chỉ ăn, chơi, đi học. Không ngon lành như công tử Bạc Liêu nhưng cũng là công tử, tiểu thư... nghèo Bà Lụa.

blank
Hình gia đình chụp năm 1962

Làm tiểu đội trưởng quản lý một tiểu đội như má tôi, bà phải đặt ra những luật lệ rất gắt gao để giữ trật tự nề nếp, mà anh chị em tôi, từ trên xuống dưới, phải răm rắp tuân theo. Nè nhen, kéo ghế ra, ngồi xuống, đứng lên, phải đẩy vô cho gọn gàng ngay ngắn. Tuyệt đối không được lên nhà trên lúc ba tôi đang ngủ trưa. Ngồi trong bàn ăn không được nói chuyện. Không nói bậy, chửi tục. Hàng xóm mang đến cho cái gì không được tự động ăn trước, phải chờ má tôi nghiệm thu để biết mà trả lễ cho tương xứng. Nhiều lắm, không kể nổi đâu. Nhưng có cái nầy thì tôi đặc biệt nhớ. Ở nhà quê mà, đất cát sình bùn dữ lắm, cho dù chiều nào cũng tắm rửa sạch sẽ, khi đi ngủ, hai bàn chân vẫn không sạch. Người ta thì đánh răng trước khi ngủ, nhưng má tôi có thêm quy củ, rửa chân trước khi ngủ, để đỡ giặt mền chiếu đó mà. Tối nào, má tôi cũng đợi chúng tôi nằm yên trên ván - thời đó, năm đứa nhỏ chúng tôi ngủ chung trên bộ ván lớn - má tôi một tay bưng đèn dầu, một tay cầm roi, kiểm tra bàn chân từng đứa. Bàn chân nào không sạch, vừa bị ăn một roi, vừa phải tuột xuống đi rửa. Nhất là đứa nào ngu, trời nóng chết mẹ mà đắp mền, má tôi càng đặc biệt chú ý, chạy trời không khỏi nắng.

Quần áo chúng tôi mặc cũng phải thứ tự, không được xa bồ xa bộn. Nhà nghèo mà. Cái nào mặc ở nhà. Cái nào mặc đi học. Cái nào mặc đi chơi, đi chợ, đi búa. Cái nào mặc ngày Tết, đều có quy định cả. Mấy chị và tôi mỗi đứa đều có 1 chiếc áo đầm, và 1 cái nơ cài tóc có đính kim tuyến, hồng, xanh, tím, đỏ khác nhau. Cất kỹ lắm. Chỉ được mặc vào mấy ngày Tết. Ạ! bây giờ tôi mới nghĩ ra, tôi nhỏ nhất nhà, chắc là tôi phải bận áo đầm 4 đời của 4 bà chị tôi, không bao giờ được bận áo mới, chứ gì? Vậy mà, hồi nhỏ, tôi mong đến Tết dữ lắm, như tất cả những đứa con nít khác, nhưng ở tôi, còn thêm một lý do, đó là mấy ngày duy nhất tôi được mặc áo đầm và được cài nơ lên tóc trong một năm.

Mà má tôi giỏi thiệt. Quần áo chị em tôi mặc bà cũng may. Bà cắt quần cho mấy chị tôi xong, mót phần vải còn dư, may cho tôi. Hai cái cho chị tôi thì thêm được một cái cho tôi. Dĩ nhiên quần tôi không thể nào rộng rãi vì không đủ vải, chạy nhảy tối ngày như tôi, cứ bị bung chỉ rách đáy hoài. Khổ. Má tôi còn sử dụng rành rọt búa, kiềm, dùi, đục, dao rựa, cưa, kéo..nữa chứ. Bà cưa cây cưa củi, bà đục chỗ nầy, trám chỗ nọ, trét chỗ kia, thiết kế cũng bà mà thi công cũng bà. Đàn ông cũng bà, mà đàn bà cũng bà. Sao má tôi giỏi quá cỡ hỏng biết? Có ai tin không? Sức lực vô biên ẩn trong thân hình nhỏ nhắn của má tôi. Hồi trẻ tôi không nhận ra. Nhưng giờ, hồi tưởng lại, cái cực mà tôi trải qua sau ngày lấy chồng, so với má tôi, nào có nhằm nhòm gì.

Tôi thích được đi chợ với má tôi lắm. Con nít ở nhà quê ngày xưa có được đi đâu ngoài đi chợ. Đi chợ bằng xe ngựa. Lên tới chợ, tôi ngồi giữ gánh cho má tôi. Bà đi mua đồ, đem lại bỏ vào gánh, rồi đi mua tiếp. Bận đi thì chỉ có người, không đồ đạc, nên ngồi xe ngựa thoải mái. Bận về, vừa người vừa đồ đạc, xe chật cứng, tôi là con nít, luôn bị nhét vô giữa, không nhúc nhích, cục cựa gì được, bước xuống xe, hai chân tê cóng, muốn quỵ. Vậy mà cũng ham đi, vì bao giờ cũng được má tôi cho tiền, ăn một ly nước đá đậu đỏ bánh lọt của ông các chú ở phòng thông tin, món mà tôi ghiền nhất ở chợ Bình Dương lúc nhỏ. Trời nắng, ăn nước đá đậu đỏ bánh lọt, vừa ngọt, vừa mềm, vừa bùi, vừa lạnh. Ngon lắm.

Má tôi lại hiền lành, lễ phép, rất mực hiếu kính và thương ông bà nội tôi. Bởi vậy mà bà nội tôi thương má tôi như con gái. Má tôi cũng vậy. Từ khi lấy ba tôi, bà nội tôi là chỗ dựa vững chắc nhất của má tôi, những lúc bị ba tôi ăn hiếp. Có lần, má tôi giận ba tôi, bà đem bốn đứa con lên nhà nội, hai đứa nhỏ nhất thì để vô hai cái thúng, gánh lên vai, hai đứa lớn hơn thì lúc thúc chạy theo. Má tôi lùn và nhỏ con, gánh như vậy đi từ nhà tôi ở Bà Lụa lên nhà ông bà nội trên xã Chánh Nghĩa, sáu km. Nghe chị tôi kể lại, tôi vừa thương mà vừa phục má tôi quá. Cũng có hơi tức cười khi tưởng tượng ra hình ảnh đó.

Mặc dù không biết hát nhưng má tôi có tâm hồn nghệ sĩ. Anh ba tôi kể, hồi anh còn nhỏ, nhà nghèo, nhưng khi biết anh ba tôi thích đàn, má tôi cũng cho anh tiền mua cây đàn mandoline, còn cho anh đi học đàn nữa chứ. Còn thằng Cường em tôi, nó biết má tôi thích nghe hát, nên mỗi lần muốn nịnh má tôi, nó hay hát bài Lòng Mẹ cho má nghe. Những lúc ấy bà ngồi lắng nghe với nét mặt sung sướng thấy rõ.

Má tôi rất được lòng người trong làng. Bà tuy khó tánh, đâu đó đàng hoàng, nhưng hiền lành, vui vẻ và tốt bụng. Cuộc đời tôi chưa từng thấy bà gây gổ, cãi vã với ai bao giờ. Cũng không gian trá, lợi dụng hay lường gạt ai. Mấy bà bạn già của bà thương quí bà lắm. Có khi tôi nghĩ, không biết má tôi có nữ tính hay là nam tính, nhưng không sao tìm được câu trả lời. Bà là người thông minh, tháo vát, giỏi giang, không ỷ lại, không thở than, kể lể, tuy nghèo nhưng rộng rãi, phóng khoáng, sảng khoái. Có lúc bà bệnh rất nặng, nhưng vẫn nằm đó, âm thầm cắn răng chịu đựng, không hề rên la hay than thở. Má tôi không biết nhõng nhẽo. Có lẽ do má tôi mất mẹ từ lúc mới lên 3 chăng? Vì vậy mà thiệt thòi hơn ba tôi. Ba tôi, đàn ông mà nhõng nhẽo lắm. Ăn không ngon miệng cũng thở dài. Nhức cái răng cũng rên. Những lúc đó, má tôi: "Hứ! Ông mà đẻ, cả nước đều biết." Má tôi nể ba tôi lắm. Xí, xó, háy, hó gì cũng nho nhỏ, không bao giờ dám để ba tôi nghe. Tôi chưa từng nghe má tôi xon xỏn cãi lại ba tôi bao giờ. Bà cũng là người nhẫn nại, giỏi chịu đựng, nhường nhịn và rất thương con như người phụ nữ Á Đông mẫu mực nhất. Còn nhớ, khi mấy anh em trai tôi vượt biên đi rồi, ba tôi, đêm đêm vẫn ngủ khò, ngáy om sòm trời đất. Vậy mà khuya khuya, khi chúng tôi thức giấc, thường nhìn thấy má tôi, âm thầm bưng đèn dầu, rọi nhìn vào mấy tấm hình của con trai cho đỡ nhớ. Nhắc lại vẫn còn muốn rơi nước mắt. Ôi, má của tôi.

Má tôi là “The best má in the world” đối với tôi. Phần lớn đàn bà Việt Nam đều hy sinh và chịu đựng. Nhưng cái tuyệt vời của má tôi là với thu nhập rất thấp của gia đình tôi thời đó, bà đã chắt chiu, tính toán để nuôi mười một anh chị em chúng tôi ăn học đàng hoàng. Hình ảnh má tôi trong lòng tôi như con gà mẹ, dang rộng đôi cánh, lúc thì ấp ủ, sưởi ấm, lúc thì bảo vệ bầy con khi thấy diều hâu bay lượn trên cao. Hình ảnh má tôi trong lòng tôi như con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non. Má tôi tuy không phải gánh gạo nuôi chồng, nhưng một đời khổ cực, hy sinh, chịu đựng, nhường nhịn, và khóc nỉ non, mặc dù không bao giờ để ai nghe thấy, khi nhớ mấy anh em trai tôi, lưu lạc xứ người.

Má tôi cũng là “The best má in the world” trong lòng mười anh chị em khác của tôi. Tất cả, dù giàu có, thành đạt hay không, dù sống bên cạnh má tôi hay không, đều thương yêu, kính trọng má. Sau khi má tôi mất, thằng Cường, em tôi, thương nhớ má, đã làm một bài thơ, ca ngợi công đức của bà, tuy vần điệu không hay, nhưng rất thiết tha, chân thành và cảm động. Bài thơ đó, bây giờ luôn được để cạnh bàn thờ má tôi. Nó thích bài Bông Hồng Cài Áo lắm, có tiệc tùng gì là anh chàng vừa gảy guitar vừa hát:

Một bông hồng cho anh.
Một bông hồng cho em.
Một bông hồng cho những ai đang còn mẹ.
Đang còn mẹ để lòng vui sướng hơn.
(Bông Hồng Cài Áo - Phạm Thế Mỹ)

Má tôi không thích kể lể, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng nghe má tôi than phiền về cái tính gia trưởng của ba, nên tôi không thể hình dung được tình cảm của má tôi dành cho ba tôi ra sao? Cho mãi đến khi ba tôi mất, ở tuổi 80. Má tôi không than khóc, ỉ oi, nhưng suy sụp. Rồi có một buổi tối, trời mưa rỉ rả, bà chép miệng buồn bã mà nói với chị tôi rằng: "Trời mưa, cái gì cũng đem vô được, chỉ có một thứ là không thể đem vô”. Chúng tôi đều biết, bà muốn nói đến ba tôi, được chôn trong vườn.

Má tôi mất đi, không để lại tài sản vật chất gì nhiều, nhưng tài sản tinh thần thì thật là vô giá. Đó là niềm tự hào, hãnh diện vì được làm con của má. Đó là những đức tính mà chúng tôi thừa hưởng được ở má. Đó là sự cảm nhận được tình cảm thiêng liêng và cao quý của một người mẹ trong chúng tôi.

Mong rằng, tất cả những người con trên thế gian nầy, đều có một người mẹ tuyệt vời như anh chị em chúng tôi.

Mong rằng, tất cả những người con trên thế gian nầy, những ai còn má, hãy nghĩ đến, hỏi han, chăm sóc và thương má mình nhiều hơn nữa.

Rủi mai nầy mẹ hiền có mất đi.
Như đoá hoa không mặt trời.
Như trẻ thơ không nụ cười.
Như đời mình không lớn khôn thêm.
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
(Bông Hồng Cài Áo - Phạm Thế Mỹ)

Nguyễn thị Hoà Nam

Ý kiến bạn đọc
12/05/201423:57:05
Khách
Bai nay khien toi muon khoc va nho Ma toi qua. Ma toi mo coi luc 8 tuoi, roi lay chong luc 20. Khi ba toi mat, Ma chi moi 31 tuoi, mot dan con 6 dua, toi la nguoi lon nhat moi 9 tuoi, dua nho nhat 7 thang. Tan tien chat mot de nuoi chung toi nen nguoi...Ma toi cung giong nhu tinh cach nguoi Me cua tac gia. Khong bao gio tho than, chiu dung am tham...nuoi chung toi 6 dua cho nen nguoi...Cam on tac gia da viet bai nay.
11/05/201420:48:07
Khách
Bài viết quá hay!
10/05/201401:20:31
Khách
Bai viet rat sau sac , tham thuy ve tinh Me con .Tac gia co tri nho rat tot , ti mi tung ky niem ve Me nang niu [Neu con la Giao vien Mon Van nhu hoi o Dalat Viet nam , chac toi se cham bai nay voi diem cao nhat lop khi viet ve Me ]
Cam on tac gia , khong nhung chi ghi lai nhung ky niem dep ve me , tac gia con khong quen nhac nho the he tre lon len o nuoc ngoai nho quy trong tinh Me Cha vi e rang mot so chay theo trao luu moi , xem nhe gia dinh , coi thuong tinh Mau tu , phu tu
Toi rat thich thu khi theo doi tung mau ky niem ve gia dinh tac gia .Chuc tac gia tiep tuc thanh cong lon trong moi truong Van hoc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,321,068
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2019 và đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho bài viết góp phần phát triển văn hóa Việt tại hải ngoại.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012.
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.”
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.