Người viết: Phương Hoa
Bài số 4076-14-29476vb2120113Tác giả sinh năm 1950, đến Mỹ năm 1994 diện tị nạn chính trị theo
chồng, hiện sống ở Bắc Cali. Tốt nghiệp đại học ngành Early Childhood
Education (giáo dục nhi đồng) tại Chapman University miền Nam California
hồi tháng 5, 2012 khi tròn 62 tuổi, đang volunteer tại một trường học
ở Marysville trong khi chờ đi dạy. Phương Hoa đã nhận giải Danh Dự Viết
Về Nước Mỹ 2013 và tiếp tục viết nhanh, viết khoẻ. Bài mới nhất
của bà được viết trong ngày lễ Tạ Ơn 28 tháng 11, 2013, kèm theo lời
đề tặng trân trọng:Kính tặng chú Hồ Bốn, Westminster, California
* * *
Hôm nay là ngày Lễ Tạ Ơn, tôi xin kính cẩn nghiêng mình tạ ơn đất
nước Hoa Kỳ đã cho tôi, gia đình tôi, và tất cả đồng hương của tôi sự
tự do và nhiều cơ hội tiến thân. Tôi biết nước Mỹ "Thi ân bất
cầu báo," giúp những người tị nạn không phải để nhận tiếng cám
ơn. Nhưng đối với những người thọ ơn, nếu không bày tỏ được lòng cảm
kích và cám ơn đối với ân nhân thì họ sẽ "ngủ không yên."
Hồi đầu tháng, tôi nhận được lá thư có chữ ký của ông John E.
Hamilton, Tổng Tư Lệnh (Commander-in-Chief) Thương Binh Hoa Kỳ. Trong thư
có đọan, "Bạn nghĩ gì khi đọc cụm từ Tàn-tật-nghiêm-trọng
(Seriously-Disabled)? Có lẽ bạn sẽ tưởng tượng ra những nam nữ chiến
sĩ trẻ ngồi trên xe lăn với đôi chân cụt, khuôn mặt bị biến dạng, hay
có miệng mà không còn nói được... Nhưng bạn biết gì về những thương
binh với vết thương vô hình khủng khiếp trong trí não họ? Trên thực
tế, hiện chúng ta đang có hơn 226 nghìn nam nữ thương binh trở về từ
Iraq và Afghanistan đang ngày đêm vật vã vì chứng não bộ chấn thương
(Traumatic Brain Injury)..."
Và phần cuối thư có đọan, "Chúng tôi cần những người yêu nước
như bạn bước tới để giúp những thương binh mà cuộc đời họ đã bị
đổi thay vĩnh viễn bỡi chiến tranh." Sau đó tôi ký cái check gửi
đi như tôi vẫn làm trước đây mỗi lần nhận được thư kêu gọi trợ giúp
từ cái hội này, với ý nghĩ góp chút quà mọn để tỏ lòng biết ơn
nước Mỹ đã tạo cơ hội cho tôi và gia đình có được ngày hôm nay, chứ
không hề nghĩ là mình đã "làm ơn" khi giúp họ. Thế nhưng,
ngày hôm qua, trước lễ Tạ Ơn một ngày, tôi nhận được một phong bì
lớn, trong đó là một tấm "Certificate Of Recognition," tên tôi
được ghi trang trọng trong một khung trang trí đẹp tuyệt, từ cơ quan
Thương Binh Hoa Kỳ do giám đốc hành chính Homer S. Townsend, Jr. ký. Dù
sự đóng góp của tôi chỉ là rất nhỏ nhưng trong mùa lễ Tạ Ơn này họ
vẫn tỏ cho tôi biết là họ cảm kích.
Cách xử sự chu đáo này nhắc tôi nhớ tới vị ân nhân của tôi.
*
Khi biết tin được vào Chung Kết VVNM 2013, tôi có đến hai nỗi mừng.
Thứ nhất tôi mừng vì sau mấy tháng dồn tâm huyết, trút lòng mình
vào những trang giấy trang "MicrosoftWord" thì đúng hơn rồi
hằng đêm lên Việt Báo online dõi theo những bài viết tuyệt vời của
các tác giả khác, bây giờ tôi đã có cơ hội đi Nam Cali thăm tòa soạn
VB và gặp mặt làm quen với những tài năng mình từng ngưỡng mộ.
Điều thứ hai cũng quan trọng vô cùng. Đó là tôi sẽ được dịp viếng
thăm vị đại ân nhân, người đã giật tôi ra khỏi tay tử thần trong một
sáng tinh mơ ở vùng biển quê nhà mấy chục năm về trước. Ông hiện đang
sống ở thành phố Westminster nhưng tôi vì mãi bận bịu lu bu nên không
thường xuyên đi thăm Người được.
Ngày xưa còn trẻ, dù tôi không phải là một tay bơi giỏi, nhưng mấy
đứa bạn thường kêu tôi là "rái cá" vì tôi bơi rất dẻo dai.
Đó cũng nhờ bãi biển Nha Trang là nơi tắm biển tuyệt vời. Hầu như
sáng sớm nào tôi cũng chạy xuống biển, tụ tập cùng lũ bạn vui đùa
trên bãi cát một hồi rồi nhào xuống nước bơi với nhau. Tôi có thể
bơi tà tà từ công viên Bồn Nước bơi hoài dọc theo bờ biển tiến về
hướng Cầu Đá hàng giờ không nghỉ mà chẳng hề biết mệt. Vậy mà về
sau có lần tôi bị sóng nhận chìm, sém chút nữa đã đi "ăn cơm
cúng" cùng với ông bà ông vải, nếu không có Người trong buổi
sáng hôm ấy...
Sau 75, gia đình chúng tôi buộc phải rời thành phố dọn đi vùng kinh
tế mới, để ngày ngày trò chuyện với lũ sóc khỉ trên rẫy rừng, đêm
đêm chiến đấu cùng muỗi mòng dưới mái tranh vách đất. Một lần nhà
tôi và mấy chục người hàng xóm được lệnh mang gạo muối đi làm nhiệm
vụ "phát quang" một tháng tận trên núi cao. Đoàn người phải
trèo đèo lội suối vượt dốc cả ngày đường, trèo qua ba hòn núi lớn
gọi là "Núi Ba Cụm" mới đến được một nơi rừng thiêng nước
độc gọi là "Mật Khu Tô Hạp" để làm công tác. Không ngờ đó
lại là lần "đi mãi không về" cho hai người hàng xóm của
chúng tôi. Họ làm việc mới được vài tuần thì một quả bom bi đã bất
ngờ nổ tung, giết chết hai người trong nhóm họ và làm bị thương
nhiều người nữa. Nhà tôi và những người may mắn được an toàn phải
tải thương xuống đồng đưa họ vào bệnh viện và đem những người chết
về làng. Chúng tôi hoảng quá nên sau đó bỏ rừng rẫy chạy một hơi
trở về quê cũ.
Với đám con thơ và hai bàn tay trắng, chúng tôi lại phải bắt đầu từ
con số không. Cuộc sống khi đó rất là tồi tệ, ban ngày vất vả tính
toan vì giấy tờ hộ khẩu và cơm áo gạo tiền, đêm về trăn trở muộn
phiền cùng nghìn mối lo âu không làm sao yên giấc. Để giải tỏa bớt
căng thẳng, mỗi buổi sáng tôi dậy thật sớm, trước cả bình minh, theo
chân những người hàng xóm chạy bộ xuống biển. Tôi thường chạy một
mình vì nhà tôi lười dậy sớm và sợ lạnh.
Phong trào tắm biển nở rộ hẳn lên ở thành phố tôi vào khoảng thập
niên 80s. Thời buổi gạo châu củi quế, thuốc men khan hiếm, cuộc sống
căng thẳng nhiễu nhương, người ta xem chạy biển như là một phương thuốc
để tăng cường sức lực. Không gì thích thú cho bằng buổi sáng chạy
từ nhà ra biển cho người ấm lên rồi phóng ùm xuống nước. Sau khi bơi
một hồi thì nằm thả người lênh đênh trên mặt nước để thư giãn, vừa
tận hưởng cái cảm giác mát mẻ của nước muối thấm vào từng làn da
thớ thịt, vừa nhìn những chú hải âu bay lượn trên không, vừa ngắm mây
trôi, và nhìn mặt trời ban mai đỏ hồng như cục than lửa khổng lồ từ
từ xuất hiện ở phía chân trời.
Tuy nhiên, vùng biển của thành phố quê tôi không được may mắn có sự
che chắn của núi đồi ốc đảo như biển Nha Trang. Từ bờ nhìn ra, biển
trống trải thênh thang, mênh mang xanh ngắt một màu dưới bầu trời xám
trắng. Cho nên những khi có gió lớn bão to, dưới biển sóng vỗ thét
gào, thì bờ biển bị bào mòn một cách vô tội vạ; và bão tố được thế
ào ạt tấn công vào đất liền phá hoại mùa màng nhà cửa, có khi còn
lấy đi sinh mạng người ta. Chẳng những vậy, dưới lòng biển còn có
nhiều dòng xoáy làm nước chảy xoắn lại với lực hút cực mạnh.
Người đang bơi dù trong cạn, nếu rủi ro bị cuốn vào thì sẽ cứ bơi
xoay vòng và bị kéo dần ra xa cho đến khi kiệt sức, dù bơi giỏi cỡ
nào cũng khó thoát để vào bờ. Địa thế bãi biển hiểm nguy như vậy
nên lâu lâu lại có một nạn nhân bị biển nhận chìm.
Chúng tôi chạy biển quanh năm, tắm biển hầu hết các mùa, trừ mùa
đông. Cứ thế cho đến một buổi sáng tháng Mười Âm lịch, cái ngày mà
cơn bão lụt lớn hoành hành khốc liệt trên đất nước Philippines, mực
nước trong thành phố dâng cao đến hơn bốn mét.
Thức giấc sau tiếng gọi của người bạn hàng xóm, vừa xuống dưới nhà
thì bị mẹ tôi ngăn lại:
- Bữa nay con ở nhà đi! Đài vừa nói đang có bão rất lớn ở
Philippines, nó đang tràn sang Việt Nam theo hướng tỉnh mình!
- Không sao đâu má ơi! Tôi nói. -Tụi con chỉ chạy xuống và ở trên bờ
tập thể dục rồi về chứ đâu có tắm mà lo.
Nói rồi tôi vội vã chạy đi, không hề biết là sém chút nữa tôi đã
không còn cơ hội gặp lại mẹ.
Ngoài trời đang có gió rất mạnh từ hướng biển thổi lên. Tôi và mấy
người bạn chạy ngược hướng nên bị gió giật tơi bời làm xù cả tóc.
Gió máy là "chuyện nhỏ" đối với dân chạy biển trường kỳ
như chúng tôi. Nhưng khi đến bờ biển thì ai nấy đều há hốc miệng kinh
hoàng. Nhiều người đứng trên bờ xôn xao chỉ trỏ: bãi cát quen thuộc
đã biến mất.
Mới hôm trước bãi cát ấy còn chạy dài từ trên đường lộ xuống dưới
nước, không ngờ chỉ sau một đêm bờ biển đã bị biến thành vực thẳm
thật rợn người. Gió thổi phần phật bên tai, đứng trên bờ cát nhìn
xuống nước tôi có cảm giác chóng mặt như là đang đứng trên mái ngói
của một ngôi nhà. Ngoài khơi, hàng hàng lớp lớp những cơn sóng bạc
đầu cao ngất đang cuồn cuộn hùng hổ tiến vào. Đến gần bờ chạm vào
cát, chúng trở nên dữ dội hơn, cất lên cao hơn rồi hòa nhập với lớp
sóng sau, cùng bổ ầm lên bờ, và xúc từng mảng cát lớn cuốn ra
biển. Từng đợt rồi từng đợt, những cơn sóng như những chiếc máy xúc
khổng lồ làm việc miệt mài, và bãi biển tội nghiệp của chúng tôi
đành chịu trận mà vô phương chống cự.
Lần đầu tiên chứng kiến cảnh tượng như trong phim này, mọi người
dường như quên đi sợ hãi. Thay vì phải bỏ chạy để trở về nhà, tôi
lại ngu ngốc thích thú đứng trên bờ cùng với người ta giương mắt ra
mà "trầm trồ trâm trết."
Thình lình một cơn sóng cao khủng khiếp, bổ "Ầm!" một phát,
chụp xa vào trong bờ qua khỏi đầu mọi người rồi giật mạnh ra. Ai nấy
hoảng hốt chạy tán loạn bật ngược ra sau. Tôi bị sóng chụp trúng té
nhào, và cơn sóng hung thần này kéo tôi lăn lông lốc như một trái
banh, từ trên bờ lộn xuống nước. Tôi cố sức bám vào bờ cát để đứng
lên nhưng rồi những cơn sóng tiếp theo đánh vào, cuốn tôi trôi tuột ra
khơi. Trong nháy mắt, tôi thấy mình cách xa bờ cũng đến mấy chục
mét.
Đã từng có kinh nghiệm nhiều lần đùa giỡn với sóng biển, tôi chưa
cảm thấy có chút sợ hãi nào ngay lúc đó nên chỉ cố gắng tìm cách
bơi vào. Như những người chơi trược sóng, tôi ngoái nhìn ra sau chờ cho
cơn sóng kế tiếp tràn vào thì phóng mình trồi lên, lượn theo đầu
ngọn sóng sải chân bơi thật mạnh vào bờ và đáp xuống. Nhưng vừa đặt
chân xuống bờ cát chưa kịp đứng dậy thì cơn sóng khác đã tức tốc
phủ lên tôi, kéo giật trở ra. Tôi bị mất đà vì bờ cát là vực thẳm,
nên lăn tròn và bị dìm xuống sát dưới đáy biển. Tôi nín thở cho cát
và nước khỏi vào miệng, lại trồi lên, bơi theo sóng, đáp xuống bờ,
rồi bị kéo ra. Cứ liên tục lập đi lập lại như mèo vờn chuột, những
cơn sóng đánh tôi vào bờ rồi lại lôi đi.
Những lúc chờ sóng, tôi nhìn vào bờ thấy các bạn tôi gào khóc kêu
cứu om sòm. Những người đàn ông thì hét lên bày cách cho tôi,
"Trồi lên! Bơi theo sóng!" khi thấy sóng vào sau lưng tôi và
"Lặn xuống! Nín thở!" khi sóng kéo tôi ra. Nhiều người trong
bọn họ là những tay bơi tầm cỡ, vài người là bạn thân của ông xã
tôi, và số còn lại đều là bạn quen chạy biển hàng ngày. Nhưng tuyệt
nhiên không một ai dám "xâm mình" ra tiếp cứu. Cũng đúng thôi,
sóng lớn như vậy lạng quạng có khi bị chết chùm. Mọi người cùng
nhau chạy ùa theo sau những cơn sóng về hướng biển và la hét như van
xin chúng hãy tha cho tôi mỗi khi chúng kéo tôi đi. Có lúc tôi nhìn
thấy họ như thật gần. Nhưng rồi họ chạy lùi lại khi sóng ập vào,
nên tôi bơi vào được đến bờ thì không có người tiếp cứu để giữ tôi
lại.
Tôi tiếp tục trồi lên hụp xuống một lúc rất lâu. Nhưng sức người có
hạn. Dần dần tôi cảm thấy đầu váng mắt hoa, tay chân rời rã nên bắt
đầu bơi chậm lại, rồi sau cú quật của một cơn sóng, tôi bị uống một
ngụm nước biển. Đó là ngụm nước muối đầu tiên từ lúc tôi bị kéo
xuống biển đến giờ. Cái cảm giác buồn nôn khi những giọt nước muối
tràn qua cổ họng cho tôi biết đây là giây phút thập tử nhất sinh, sắp
hết hy vọng vào bờ. Tôi nhắm mắt lại và trong trí tôi bỗng tự niệm,"Nam
Mô A Di Đà Phật" rồi chuẩn bị buông tay để mặc cho sóng vùi gió
dập.
Không ngờ vừa dứt câu niệm Phật trong đầu, như có phép màu, tôi bỗng
thấy một bóng người hiện ra lờ mờ trước đôi mắt gần như "tản
thần" của tôi cùng với câu nói:
- Đừng có níu kéo nhé! Để ta giúp cho. Rồi bóng người đó vòng ra
sau lưng tôi.
Thường thì những người sắp bị đuối gặp vật gì hay gặp ai họ cũng
bấu víu vào thật chặc để tìm đường sống. Cho nên có nhiều trường
hợp người đến cứu cũng bị chết chìm. Lúc ấy tôi đâu còn tâm trí
nào để nhớ đến lời dặn vừa rồi, cũng không còn đủ minh mẫn để
mừng vì có người đến cứu. Nhưng có lẽ vì tôi biết bơi nên tôi đã
không tìm cách bấu víu mà chỉ tiếp tục bơi theo quán tính. Khi nhận
ra có người phụ đẩy từ phía sau, tôi cố gắng dùng hết chút tàn lực
bơi vào cùng với sự trợ giúp đó. Sau cùng, một cơn sóng lớn đã
"tiếp sức" cùng Người, đẩy mạnh tôi lên bờ. Dù lúc này tôi
đã bị hoa mắt ù tai, tôi vẫn nhận ra một hàng dài những người đàn
ông nắm tay nhau thành một sợi dây chuyền từ trên bờ xuống sát mặt
nước để giúp sức. Khi người đàn ông đứng ở đầu hàng chụp được tay
tôi thì tôi hoàn toàn kiệt sức, phó mặc cho "đường dây
người" lôi tôi xềnh xệch chạy lên trên cát trước khi những cơn
sóng khác ập vào.
Mấy cô bạn nhào đến ôm chầm lấy tôi, vừa khóc vừa xoa bóp tay chân
để giúp tôi tỉnh táo. Sau khi hoàn hồn bình tĩnh, tôi nhìn lại thì
vị ân nhân đã bỏ đi tự lúc nào. Hỏi ra chẳng ai biết người đó là ai
và sống ở đâu. Mọi người đều nói chưa bao giờ gặp người này trong
suốt thời gian họ đi biển. Tôi đã cảm động đến khóc khi nghe bạn bè
nhắc lại câu nói của Người trước khi lao mình vào sóng biển để cứu
tôi:
- Tôi lớn tuổi hơn các vị, để tôi xuống cứu cho!
Ôi! Quả là một sự hy sinh vì người, quên thân mình để tiếp cứu nạn
nhân trong cơn nguy cấp. Vậy mà Người đã lặng lẽ bỏ đi mà không cần
nán lại để tôi được nói tiếng cám ơn. Câu nói của Người đã được
truyền tụng, nhắc nhở luôn luôn trong giới tắm biển thành phố với
tất cả sự kính trọng mến yêu từ đó. Sau này mới biết, ngoài tôi ra,
Người cũng đã từng giành giật và cứu về rất nhiều nạn nhân khác
từ tay biển dữ mà Người vì quá khiêm nhường chẳng cho ai biết về
mình.
Tôi về nhà kể lại sự tình làm cho mẹ tôi và ông xã một phen hết
hồn hết vía. Bạn bè quen biết nghe tin đến thăm chúc mừng tôi thoát
nạn, và ai cũng tỏ vẻ ngưỡng mộ muốn tìm hiểu về vị ân nhân bí
mật này.
Sáng hôm sau, nhà tôi dậy thật sớm rủ tôi chạy biển. Tôi ngạc nhiên vô
cùng. Đây là lần đầu tiên cái tay "sợ chết cóng" này lại
tự nguyện rủ tôi đi biển trong mùa đông. Nhưng anh ấy nói sẽ đi biển
mỗi ngày cho đến khi nào tìm gặp được vị ân nhân đã giúp anh thoát
khỏi cái cảnh gà trống nuôi đàn con thơ dại, để anh được nói một
lời cám ơn.
Từ đó mỗi sáng sớm chúng tôi đều xuống biển, nhưng chúng tôi tìm
kiếm một thời gian khá lâu mà hình bóng vị ân nhân vẫn là "bóng
chim tăm cá."
Tìm gần không thấy thì phải tìm xa. Chúng tôi bắt đầu đi xa hơn nữa
về hướng nam dù trong lòng không có nhiều hy vọng. Và mấy ngày sau
đó tôi bất ngờ nhìn thấy từ xa bóng dáng của một người đang chạy
trên bãi cát. Dù lúc được Người ra cứu, mắt tôi đã lờ đờ mệt lã
chỉ nhìn thấy Người như một cái bóng thoáng qua, nhưng có lẽ là do
trực giác, bây giờ vừa nhìn thấy là tôi nhận ra ngay. Tôi nói với
nhà tôi đây chính là vị ân nhân đó. Nhà tôi mừng quá vội chạy đến
chào hỏi, bắt tay nói lời cám ơn với Người.
Mới đầu Người không nhận, tỏ vẻ chưa hề quen biết tôi. Tôi chụp lấy
tay Người:
- Chú à! Con nhớ rất rõ ràng, chú là người đã cứu con. Đây là cái
ơn tái tạo, chú đã sinh ra con lần nữa. Hãy để vợ chồng con được
nói một lời cám ơn chú nhé!
Bây giờ Người mới lắc đầu cười rồi nói với nhà tôi:
- Chỉ là chuyện nhỏ thôi! Có gì đâu mà ơn với nghĩa! Điều may mắn
là, thường ngày tôi chỉ chạy về phía nam, hôm ấy không hiểu sao bỗng
dưng tôi lại chạy ngược về hướng bên đó. Rồi tôi thấy người ta lao xao
lố nhố ở đàng xa, tôi chạy tới luôn. Và cũng nhờ bộ đồ tắm màu đỏ
mà tôi thấy rõ cô ấy đang lặn hụp giữa đám sóng bạc đầu ở tít
ngoài xa nên mới ra cứu kịp.
- Trời ơi! Chuyện nhỏ à? Tôi bật khóc: - Chú có biết là ngoài cái
ơn tái tạo cho con, chú đã cứu mạng cho người mẹ của bốn đứa trẻ
thơ, và con là đứa con độc nhất của một người mẹ già. Mẹ con làm
sao sống nổi nếu con bỏ người mà đi trước?
Quả tôi có phước mấy mươi đời, nên Phật Trời đã khiến xuoi cho Người
đổi hướng chạy về phía tôi hôm đó. Mặc cho vợ chồng tôi nói gì thì
nói, Người vẫn phớt lờ, từ giã chúng tôi và bắt đầu chạy tiếp.
Chúng tôi bèn chạy theo xin địa chỉ để sau sẽ ghé thăm. Người tỏ vẻ
không bằng lòng, phất tay từ chối:
- Thôi thôi! Không cần phải thăm viếng chi cả, tôi không có ở gần đây
đâu! Và Người chạy nhanh hơn. Chúng tôi cũng chạy hụt hơi bám sát gót
để theo Người về nhà. Nhưng khi lên khỏi bãi biển, đến xóm vạn chài
nhà cửa đông đúc, Người bắt đầu chạy theo kiểu "zích zắc,"
hết quẹo bên này rồi lại rẽ bên kia, vợ chồng tôi thì chạy theo sau
lưng như một cuộc rượt đuổi trong phim hình sự, và rồi bất ngờ Người
biến đi đâu mất.
Chúng tôi đành buồn bã thất thểu ra về và từ đó không hề gặp lại
Người nữa. Nhà tôi ở gần chợ lớn của thành phố, kẻ ra người vào,
khi nghe tôi kể chuyện, nhiều người cũng nói họ đã từng thoát khỏi
chết đuối nhờ một "người bí mật" cứu, nhưng người ấy
"biến mất" ngay sau đó nên họ không hề biết là ai.
Mãi đến mấy tháng sau, một lần tôi đi chợ ngang qua hàng thợ may bỗng
thấy Người đang ngồi vắt sổ ở đó. Quả thật là "Gần trong gang
tất mà cứ tưởng xa nghìn trùng!" Người làm việc trong ngôi chợ
trước mặt nhà tôi mà lâu nay chúng tôi nào có biết. Tôi mừng đến
phát khóc, nhưng không dám bước lại nói chuyện, sợ Người sẽ biến"
đi lần nữa. Vô nhà tôi kể lại với gia đình rồi đưa người cậu thứ
Chín của tôi ra chợ để "xem mặt" vị ân nhân. Trời ạ! Chúng
tôi không thể nào ngờ được, Người lại là bạn thân của cậu tôi. Hai
người đều từng làm Hiệu Trưởng nhiều trường Tiểu Học trước 75, bây
giờ hai ngài Hiệu Trưởng một đi bán vé số còn một đi vắt sổ!
Chúng tôi trở nên thân thuộc với Người từ đó. Tết đến, theo phong
tục, mẹ tôi chuẩn bị trà rượu để chúng tôi đi lễ Tết những người
có ơn nghĩa của gia đình, vị sư giúp xem ngày giờ tốt xấu, ông thầy
thuốc chữa bệnh, hay những bậc trưởng thượng trong họ, để tỏ lòng
tôn kính và biết ơn. Mẹ tôi cũng chuẩn bị trà rượu để chúng tôi đi
Tết vị ân nhân. Nhưng đến nơi chúng tôi bị Người la cho một trận và
bắt buộc phải mang tất cả về, bằng không Người sẽ cắt đứt liên
lạc!Chúng tôi cứ mãi áy náy vì Người đã không cho chúng tôi cơ hội
nào để bày tỏ lòng biết ơn.
Người đã bị "lộ tông tích" từ khi gặp tôi. Những nạn nhân
may mắn được cứu giờ đã biết ân nhân của họ là ai. Mỗi buổi sáng
xuống biển, nhóm bạn của tôi chạy về hướng nam kiếm cho bằng được
Người, nan nỉ kéo trì cho Người qua phía chúng tôi tắm để họ an tâm
mà bơi lội. Khu vực nào Người có mặt là nơi đó luôn đông đúc người
bơi. Ai nấy cũng đều yêu mến và kính trọng vị cựu Hiệu Trưởng có
phong thái từ tốn hiền hòa và đầy nhân đức này, cho nên lúc nào đi
tắm Người cũng bị vây quanh.
Ngày Người từ giã thành phố đi Mỹ định cư, tôi và nhóm bạn đã
khóc, mừng cho Người được đến nước tự do đoàn tụ gia đình, nhưng lại
buồn vì từ nay sẽ không có ai để "ngó chừng" khi tắm
biển.Thời gian đầu, chúng tôi nhắc đến Người hầu như mỗi sáng khi
gặp nhau dưới biển.
Khi gia đình tôi đến Mỹ, thỉnh thoảng chúng tôi xuống Nam Cali thăm
Người. "Ơn cứu tử cao tày núi Thái." Từ lâu tôi đã tự xem
mình như con gái của Người, rất mong được sớm hôm quà cáp chăm sóc
Người để tỏ lòng hiếu thảo, dù biết ở đây Người chẳng thiếu thứ
gì. Nhưng Người cũng đâu có chịu nhận. Mỗi lần tôi đem tặng quà đều
bị rầy và trả lại, có lần tôi bỏ chạy Người chạy theo suýt chút
nữa vấp té, và có lần tôi len lén nhét vào trong lò vi sóng, sau khi
tôi về, ở nhà phát hiện ra thì Người rất giận nên lúc chuyển sang
nhà khác đã không cho tôi địa chỉ. "Chừng nào xuống đến
Westminster chú sẽ đưa địa chỉ cho!" Người nói, khi tôi hỏi xin
địa chỉ mới, vì sợ tôi sẽ gửi quà bằng đường bưu điện. Những lần
như thế tôi chỉ còn biết than thở, "Chú thiệt tình!" Và từ
đó tôi không dám tặng quà nữa.
Tháng Tám vừa qua, sau khi đến Nam Cali chúng tôi liền ghé thăm tòa
soạn Việt Báo và ngày hôm sau tôi gọi Người xin địa chỉ rồi nhờ vợ
chồng đứa cháu chở đến thăm, để Chúa Nhật tôi còn đi dự lễ phát
giải. Tôi vui mừng ôm chầm lấy Người như đứa con gái ở xa về gặp lại
người cha thân yêu khi Người ra tận cửa đón chúng tôi. Tôi mừng vì
điều đó chứng tỏ sức khỏe của Người vẫn còn tốt. Dù nay đã tám
mươi tư, Người vẫn minh mẫn bàn chuyện nước non với nhà tôi rất là
sôi nổi, trao đổi thông tin từ báo chí của Hoa Kỳ, Việt Nam, việc Tàu
Cộng muốn thâu tóm biển Đông, và những tin tức sốt dẻo khác trên thế
giới. Người kể là thường lên online đọc báo, xem tin tức hàng ngày,
gửi email đi khắp nơi để được nhận hình ảnh con cháu đang đi học xa,
và liên lạc Việt Nam. Khi chúng tôi nhắc lại chuyện tắm biển ngày
xưa, Người cũng còn nhớ rõ từng chi tiết trong những vụ cứu người
ngày đó, kể cả việc cứu một nữ vận động viên bơi lội. Nhân đó tôi
mới biết, một người đàn ông được Người cứu ngày trước mà tôi cũng
quen hiện đang sống ở gần Westminster.
Người có một đại gia đình rất là đầm ấm và hạnh phúc. Hiện giờ
tất cả con cháu của Người đều sống ở Mỹ, trừ một cô con dâu và vài
đứa cháu còn đang kẹt lại Việt Nam. Sau khi đến Mỹ, các con của
Người ai nấy đều lo chăm chỉ học hành, làm lụng vất vả, nên đã nhanh
chóng hội nhập, và đến nay thì tất cả đều thành công trên quê hương
thứ hai này. Ngoài gia đình cô con gái vừa mới được bảo lãnh sang
còn tiếp tục học hành, số còn lại đều có công ăn việc làm đàng
hoàng, nhà cửa khang trang, cửa hiệu cửa
hàng ổn định. Họ đang hòa nhập rất tốt đẹp vào đời sống của người
Mỹ, "American s Life."
Tôi khâm phục nhất là cậu con giữa của Người, chàng thanh niên có ý
chí và sự kiên nhẫn tuyệt vời, hiện đang sống ở Boston. Ngày cùng
gia đình đến Mỹ tuổi cậu cũng đã trên ba mươi, nhưng cậu cố gắng vừa
làm vừa đi học đại học. Khi cậu học được nửa đường thì bất thình
lình bị chứng đau lưng hành hạ. Theo lời cậu kể lại cách đây cũng
khá lâu, tình trạng đau lưng của cậu lúc đó nặng lắm, khó đứng khôn
ngồi, nhiều lần cậu tưởng mình sẽ phải bỏ học nửa chừng. "Chị
biết hôn, em đau đến nỗi không thể nào ngồi. Mỗi lần vào lớp, em
phải quì dưới sàn cả buổi để học," cậu nói. "Nhưng em đã
nghĩ, tuổi em không còn nhỏ nữa, một là em phải học cho xong cái
bằng Cử Nhân, hay là sẽ không bao giờ có nó, "Now or never,"
cho nên em phải cố. Nhiều lúc đau đến phát khóc, em vẫn cắn răng chịu
đựng, ráng sức nghe giảng và làm bài." Và cuối cùng nhờ ý chí
kiên cường mà cậu ấy đã vượt qua tất cả để đạt được ước mơ. Cậu
còn kể tôi nghe, khi đó dù bị đau bước không muốn nổi, nhưng cậu đã
cố gắng chạy bộ mỗi ngày hai tiếng đồng hồ để điều chỉnh cái lưng.
Cậu đã chạy ròng rã trong hai năm cuối của đại học, "Lúc đầu em
vừa chạy nước mắt vừa chảy ra vì đau đớn, nhưng sau khá dần
lên," cậu nói. Rồi cậu cũng được đền bù, sau gần hai năm cái
lưng của cậu đã được trả về tình trạng cũ cũng là lúc cậu nhận
bằng tốt nghiệp. Thật là một sự cố gắng phi thường! Từ đó tôi
thường đem chuyện của cậu kể cho mấy thằng nhóc nhà tôi nghe để tụi
nhỏ noi gương theo, mỗi khi tụi nó gặp phải những khó khăn cần chống
chọi để vượt qua. Quả là ý chí mạnh mẽ có thể giúp người ta làm
nên lịch sử.
Còn nữa, cậu con trai út của Người là một chàng trai rất hiếu thảo.
Bao nhiêu lần tôi đến viếng là bấy nhiêu lần tôi thấy cậu ứng trực ở
đây, sau giờ làm việc, để phụ với chị gái chăm sóc người mẹ thường
hay đau yếu. Một lần cậu đã khóc khi kể lại tôi nghe, cậu sợ hãi như
thế nào khi mẹ cậu bệnh nặng tưởng chừng không qua khỏi, làm tôi
cũng phải chảy nước mắt theo. Bà thiếm tuy bệnh họan luôn luôn, nhưng
được phước là chồng rất thương, con cái rất hiếu thảo nên cũng an ủi
phần nào, bù lại cho những đớn đau về thể xác.
Hầu hết con cháu của Người đều sống ở gần nên họ tới lui thăm viếng
thường xuyên. Lần nào đến tôi cũng gặp ít nhất là vài người trong
số họ đưa mấy đứa cháu đến chơi, quây quần với ông bà. Điều hạnh
phúc này tuy giản đơn nhưng không phải gia đình nào trên đất Mỹ bận
rộn này đều có được. Có những cha mẹ già trông con cháu đến mõi
mòn, nhưng nhiều khi cả năm còn chưa gặp được. Cũng chẳng hiếm trường
hợp con cái đem cha mẹ gửi vào nhà dưỡng lão rồi "một đi không
trở lại bao giờ" để xem tình trạng cha mẹ họ ra sao. Thế nên,
người trong gia đình tôi và những bạn bè đồng hương quen thuộc, ai
biết rõ về gia đình Người mỗi khi nhắc đến cũng đều khen là gia
đình có phước lớn vì con cháu đầy nhà, cuộc sống khá thành công,
lại ăn ở đầy hiếu đạo.
Điều này có lẽ đúng. "Ở có đức con cháu không sức mà
hưởng." Và người xưa cũng có câu, "Cứu một mạng người hơn
xây chín cấp phù đồ." Người đã từng cứu mạng, không phải một
người mà là rất nhiều người, nên tôi tin là bề Trên đang gia ơn nhiều
phước đức cho Người và cho cả những đời con đời cháu.
"Cha kính thương! Nhân ngày Lễ Tạ Ơn, xin cho phép con được gọi
Người bằng cái danh xưng kính yêu trìu mến đó để tỏ lòng cảm tạ ơn
cứu tử. Con biết "Thi ân bất cầu báo" là cách sống của
Người, nhưng con vẫn mong Người nhận nơi đây tấm lòng biết ơn sâu sắc
của con. Kính chúc Người hưởng một mùa Lễ tràn đầy hạnh phúc và
cầu xin ơn Trên gia hộ cho Người được luôn sức khỏe, thọ quá Bách
Niên.
Viết trong ngày Lễ Tạ Ơn 2013
Phương Hoa
Saigon