Tác giả: Lê Đình Loan
Bài số 4036-14-29436vb3101513Trước 1975, tác giả là một nhà
giáo, từng là hiệu trưởng nhiều trường tại miền Trung và điều hành
Trung Tâm Tu Nghiệp và Huấn Luyện Giáo Chức tại Huế. Miền Nam sụp
đổ, ông đi tù “cải tạo” và sau đó vượt biển, định cư tại Hoa Kỳ,
thấy hạnh phúc khi về hưu sau nhiều năm trở lại nghề dạy học. Bài
viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là một tự truyện. Mong ông sẽ tiếp
tục viết thêm.* * *
Ai có ngờ rằng một chú bé nhà quê như tôi mà đã trải qua biết bao
sóng gió trong cuộc đời. Mồ côi cha từ lúc 9 tuổi, tôi đã vật lộn
với biết bao nhiêu là nghịch cảnh để tồn tại và vươn lên. Sớm ý
thức tinh thần trách nhiệm của người con trai độc nhất trong một gia
đình có năm chị em, tôi đã lìa xa mái ấm gia đình năm lên 11.
Ngơ ngác, ngỡ ngàng trong năm đầu, dần dà tôi đã hội nhập và thích
ứng với đời sống mới ở chốn thị thành.
đã hơn 60 năm rồi, thế mà tôi vẫn nhớ mồn một những chuyện xảy ra
vào năm 1949. Năm ấy, tôi được người bác ruột cho vào học trường
Pellerin. Súng sính trong bộ đồ mới và đôi xăng-đan còn thơm mùi da,
tôi khép nép đứng xếp hàng bên cạnh những bạn đồng lớp (lớp Ba) Tôn
Thất, Vĩnh, Bửu, Nguyễn Phước, Hồ đắc, Hoàng Trọng, Nguyễn Khoa. Vì
là một thằng nhóc quê mùa thứ thiệt, tôi đã bị những bạn đồng lớp
trêu ghẹo, búng tai, thốn vào lưng, cú vào đầu, đá vào chân..., tôi
khiếp sợ và thụt thùi trong nước mắt.
Vào lớp, nghe thầy trò xi-lô, xi -la, tôi chẳng hiểu gì hết. đúng là
“vịt nghe sấm”. Chán nản, tôi định ngày mai nằm lì ở nhà hay trốn
học. Vâng lời ông bác, tôi lại lê bước đến trường. Một tuần trôi qua,
tôi chẳng có chữ nào trong đầu. Tôi khóc lóc, năn nỉ bác cho đổi
trường. Thương tình đứa cháu côi cút, bác cho tôi vào học trường
Sainte Marie Phú Xuân, Kim Long. Sau 3 niên học, tôi lại được cho vào trường
Pellerin lần nữa.
Đã quen với nếp sống thành phố, tôi quyết chí học hành. Cuối niên
học 52-53, tôi là 1 trong 5 học sinh của lớp 6me C (lớp Đệ Thất C dành
cho những học sinh không biết tiếng Pháp) được lên lớp 5me B (Ðệ Lục B
dành cho những học sinh có trình độ Pháp văn trung bình). Tất cả
những học sinh còn lại được chuyển qua lớp 6me A, lớp của những học
sinh giỏi PV để lên 5me A, học sinh các lớp A là những học sinh giỏi
Pháp văn). Hết lớp Troisième (lớp Đệ Tứ), học sinh Huế vào Đà Nẵng
để dự thi lấy bằng Brevet d'Etudes du Premier Cycle) (B.E.P.C) (bằng Trung
Học Đệ I cấp).
Cũng nhờ mấy năm học ở các trường Lasan - Huế và Saigon, khi vào các
lớp đệ nhị cấp ban C ở Quốc Học, tôi rất thoải mái và đã may mắn
thi đỗ bằng Tú Tài I & II C trong hai năm liền.
Thế rồi niên học 60-61, vì hoàn cảnh gia đình, tôi vừa theo học lớp
Dự Bị Văn Khoa, vừa dạy thêm ở trường trung học tư thục Bình Minh,
Huế. Cuối năm ấy, tôi có chứng chỉ Dự Bị Văn Khoa, và được bổ nhiệm
làm giáo sư dạy giờ tại trường trung học Phan Chu Trinh, Đà Nẵng.
Vì khát khao gần gũi mẹ già sau bao năm chia lìa, và chăm sóc cô em
út vừa thi đỗ vào Đệ Thất trường Đồng Khánh, tôi không vào Đà Nẵng
để nhận nhiệm sở, mà quyết định thi vào các lớp Sư Phạm - Huế. Đây
là một sự chọn lựa không dễ dàng. Để hão danh qua một bên, tôi quyết
tâm vừa học sư phạm, vừa theo học thêm 2 chứng chỉ ở Đại Học Văn Khoa
Huế. Ngày 2/4/62, tôi thi ra trường Sư Phạm. Tháng 5 tôi lấy chứng chỉ
thứ 2, và tháng 8 lấy chứng chỉ thứ 3, rồi ngày 2/9 nhận nhiệm sở
ở trường Trung Học Quảng Phước, Quảng Điền, Thừa Thiên.
Sau 2 niên khóa, tôi được bổ nhiệm làm hiệu trưởng trường Trung Học
Công Lập và Bán Công Vinh Lộc, năm 64-65 dạy trường trung học Nguyễn
Hoàng Quảng trị. Sau nhiều năm làm hiệu trưởng các trường trung học
đệ nhất và đệ nhị cấp, tôi được bổ nhiệm điều hành Trung Tâm Tu
Nghiệp và Huấn Luyện Giáo Chức Huế vào giữa năm 1973.
Khi chế độ miền Nam hoàn toàn sụp đổ vào tháng 4/75, tôi vừa hoảng
sợ, nhưng cũng vừa có chút tự an ủi, vì dù sao từ đây đất nước
Việt Nam cũng hết cảnh chiến tranh, chia cắt. Vì vậy, tôi không theo
gia đình các cô em bay ra nước ngoài, quyết định sống chết trên đất
nước mình; dù phải đi “học tập, cải tạo” để thông suốt đường lối
của chính quyền cách mạng để sống thời hoà bình thống nhất.
Kết quả là chỉ sau một thời gian ngắn trong trại cải tạo Ba Lạch,
tôi đã “sáng mắt, sáng lòng”. Ròng rã 40 tháng “lao động vinh quang”
trong các trại cải tạo Ba Lạch và Bình Điền. Tôi được phóng thích
vào tháng 11/78. Khi tên tôi được xướng lên cùng với những trại viên
khác được phóng thích, tôi tưởng chừng như khả năng thính giác của
tôi không còn chính xác. Tôi thật ngạc nhiên vì tôi là người lao động
kém nhất trong số 50 anh em đồng đội. Phát rẫy, cuốc đất, trồng
trọt, lặn rong dưới suối, bứt bổi ngoài rừng, trộn phân xanh, lợp
nhà, bắt heo trong mưa lũ, gánh phân..., tôi là người lọng cọng nhất.
Tôi cứ tưởng là mộng mà té ra là thực.
Sau một thời gian dài làm bạn với núi rừng, được lệnh phóng thích,
tôi phóng như phi, lao ra tỉnh lộ Bình Điền - Huế để đón xe về thành
phố. Thật hồi hộp và sung suớng biết bao, khi về tới nhà. Gia đình
tôi tạm trú tại một căn phòng nhỏ, tồi tàn bên cạnh trường Việt
Hương, các con thơ dại của tôi vội chạy về nhà, mừng rỡ, ôm choàng
lấy ba. Cả gia đình mừng mừng tủi tủi trong ngày đoàn tụ. Nhưng ngày
vui qua mau khi phải đối diện với cảnh sống nheo nhóc, thiếu thốn của
mẹ già và đàn con thơ dại. Lúc tôi còn ở trong trại cải tạo, hai
đứa con trai của tôi mới 14 và 11 tuổi phải vừa đi học vừa bán càrem
để có tiền đi thăm nuôi ba hàng tháng, bé gái 12 tuổi phải ngày đêm,
chằm nón, chăm sóc mấy em. Vợ tôi thì làm việc ở hợp tác xã, ốm
tong teo vì quá lao nhọc và suy dinh dưỡng.
Vững tâm, không nản chí, ban ngày tôi cật lực lao động: lấy cuốc chim
mổ vào nền đất cằn cỗi của sân sau trường Việt Hương, biến đất sỏi
đá thành những luống sắn, khoai, môn xanh tươi. Nhiều lần tôi kéo xe
ba-gác ra đến tận làng Đốc Sơ, An Hòa để xin tre đem về làm giàn cho bầu,
bí, mướp leo lên. Tôi đã không từ nan làm bất cứ một công việc gì để
có thêm chút cơm, cháo cho một gia đình đông con.
Lòng tôi quặn thắt khi nghĩ đến tương lai mờ mịt của các con. Để
giáo dục và trau dồi thêm kiến thức cho các con, tôi đã tổ chức dạy
kèm cho từng nhóm, vừa kiếm thêm được ít tiền, vừa dạy dỗ được con
cái. Tôi còn nhớ có lần tôi đã nấu một nồi cháo bột mì trộn với
cọng môn được vằm nhỏ. Tan giờ học, các con tôi chạy về, chúng mừng
rỡ, xơi một bụng no nê. Bữa ăn hôm ấy là bữa no và ngon nhất trong
tháng! Các con tôi sáng mắt lên và nói: Ba nấu cháo bột mì ngon quá.
Tôi cảm động và ứa trào nước mắt...
Sau 18 tháng bị quản chế tại địa phương, tôi được trả quyền công dân,
và nghĩ ngay đến chuyện phải di chuyển gia đình vào Nam để sinh sống.
Ở trong ấy, tương lai của các con tôi mới khá lên được. Có hộ khẩu ở
miền Tây, gia đình tôi tạm trú ở thành phố Saigon, các con tôi được
nhận vào học ở các trường gần nơi tạm trú. Ngày ngày tôi ì ạch
đạp chiếc xe nội hóa đến các tư gia và các trung tâm để dạy Anh ngữ.
Nhờ vậy cuộc sống gia đình có đỡ hơn một chút.
Sau 8 năm, dù đã cố gắng hết sức, vợ chồng tôi rất đau xót khi nhìn
thấy đàn con thèm ăn, thiếu mặc. Gia đình túng quẫn, nợ nần chồng
chất. Lại một lần nữa tôi phải có một quyết định sinh tử: vượt
trùng dương để mưu cầu tương lai và hạnh phúc cho đàn con.
Âm thầm ra đi, vợ con không biết, tôi đã đến được đảo Pulau Bidong sau
một tuần lễ trôi nổi trên đại dương. Sau một ngày một đêm vượt sóng,
chiếc tàu chở 127 người chết máy. Giông tố, bão bùng nổi lên, chớp xé
bầu trời xám xịt, sấm gầm vang, những đợt sóng dữ liên tục ồ ạt
tấn công con tàu đang như chiếc lá bồng bềnh trôi giạt giữa lòng đại
dương mênh mông. Lương thực và nước uống cạn dần, mọi người thì thầm
cầu nguyện xin Ơn Trên và tổ tiên, ông bà phù hộ cho tai qua nạn khỏi.
Những cơn gió hú, những đợt sóng lớn tràn qua thành tàu, mặt biển
đen sì như loài quỷ sa-tăng đang sẵn sàng nuốt chửng 127 sinh linh đang
cơn đói khát, khiếp đảm, vô vọng... Tôi âm thầm cầu nguyện, bình tĩnh
chờ chết, ăn năn sám hối những tội lỗi đã phạm trong 50 năm sống trên
dương trần...
Trong suốt mấy ngày bồng bềnh trên biển cả, gặp nhiều tàu buôn,
chúng tôi kêu cứu bằng cách treo cờ trắng, S.O.S., đốt lửa nhưng họ
đều làm ngơ. Cuối cùng, cầu vồng xuất hiện, trời trong xanh trở lại,
biển êm, gió lặng, mặt trời hoàng hôn sáng rực ở đằng xa. Đột nhiên
một chiếc thuyền đánh cá nhỏ, trên đó có ba cha con người Mã-Lai,
chạy lại gần tàu của chúng tôi. Tôi được thuyền trưởng chọn tiếp
xúc với họ. Họ đồng ý cho tôi vào đảo Pulau Bidong; nơi đó đang có
hàng ngàn người chờ đi định cư ở nước thứ ba. Tôi được ủy thác vào
đất liền, yêu cầu văn phòng Cao ủy Tị Nạn can thiệp với các tàu buôn
cứu vớt 126 người còn lại trên tàu.
Đứng lặng yên trên mũi tàu, tôi cầu nguyện trước khi nhảy xuống chiếc
thuyền bé bỏng đang lắc lư theo sóng. Thật nguy hiểm; có thể lọt
xuống biển, và cũng có thể đập đầu vào cái neo bằng sắt nhọn đặt
trước mũi thuyền. Nhờ Ơn Trên và tổ tiên phù hộ, tôi đã nhảy rất
chính xác vào phía trước của con thuyền. Hú ba hồn chín vía! Tôi
vẫy tay chào tạm biệt mọi người trên tàu, lòng tràn ngập hy vọng...
Mấy cha con người Mã Lai mời tôi trái cây và một đĩa cơm trắng trộn
với xà lách và thịt bò. Nhưng quá vui sướng, tôi chẳng thèm ăn uống
gì hết. Đêm hôm ấy, từ 7 giờ tối đến sáng hôm sau, là đêm đẹp nhất
trong đời tôi. Nhìn trời biển, trăng sao, lặng người để tận hưởng làn
gió mát dịu dàng thấm vào từng thớ thịt của tôi, lòng tôi dâng lên
một niềm hạnh phúc bất tận. Thả hồn theo những suy nghĩ miên man,
hồi tưởng lại những éo le, vui buồn, vinh nhục trong quá khứ, liên
tưởng đến mẹ già, vợ con, bạn bè và những người kém may mắn cùng
dòng máu, màu da, nước tóc đang ở quê nhà, tôi thấy gần gũi và thương
họ hơn bao giờ hết. Cuộn phim cả cuộc đời năm mươi năm của tôi tuần
tự hiện ra trước mắt.
Nghĩ đến trong tương lai không xa, vợ tôi không còn xoay xở trăm bề để
có miếng cơm, manh áo cho con cái, không còn thức trắng đêm vì nợ nần
ngày càng chồng chất, các con của tôi không còn sống nheo nhóc, đói
cơm, thiếu áo, lòng tôi cảm thấy hạnh phúc khôn tả. Tôi sẽ là tay
lái có đủ khả năng và nghị lực để đưa con thuyền gia đình bé nhỏ
của tôi đến bến bờ bình an.
Chuyến đi cầu cứu của tôi mang lại kết quả tốt cho những thuyền nhân
chờ đợi df9ược cứu cấp. Chỉ sau một tuần ở trại Pulau Bidong, tôi
hăng say tham gia các công tác cộng đồng, tình nguyện dạy Anh văn cho 3
lớp; mỗi lớp từ 50 đến 100 người. Ngoài ra, tôi còn tổ chức các lớp
riêng để có tiền gởi về cho vợ con ở quê nhà. Mỗi tháng kiếm được
300 đô để vừa trả nợ vượt trùng dương, vừa để cho vợ con cầm cự
trong khi chờ đợi định cư ở nước thứ 3 là một ân sủng mà Trời đã
ban cho tôi sau một năm ở trại tị nạn.
Giữa năm 1990, tôi được định cư ở San Jose, Mỹ quốc. Sau hai tháng,
được biết đại học Stanford tuyển nhân viên làm ở phòng Văn Thư, tôi
nạp đơn xin việc. Đi phỏng vấn, tôi được tuyển dụng, và được trả
lương $9/hr. Mừng quá, công việc nhẹ nhàng, đồng nghiệp vui vẻ, lịch
sự, tôi mong ước cả đời sẽ được làm việc ở đây. Mỗi tháng lãnh
lương 2 lần. Điều tôi cảm thấy vui sướng nhất là mỗi lần đi gởi tiền
về cho vợ con. Giấc mộng đã thành!!!
Thế rồi một dịp may khác lại đến bất ngờ, Garden City Casino and Club
tuyển manager và supervisor, tôi nạp đơn xin việc. Đi interview, tôi được
tuyển làm Floor Supervisor. Sau 2 tuần huấn luyện (training), tôi bắt
đầu làm việc. Lương và tiền boa (tip) gấp bội công việc cũ, ai cũng
nghĩ là tôi quá may mắn. Đi làm việc phải bận veston, thắt cà vạt,
xe an ninh đưa đón vào chỗ làm, đủ mọi quyền lợi (benefits). Không
sướng sao được. Nhưng nỗi niềm riêng ai có biết.
Trong suốt hơn 3 năm làm việc ở casino là thời gian căng thẳng và đau
khổ nhất trong đời tôi. Công việc và môi trường hoàn toàn không thích
hợp với khả năng và tâm tính của tôi. Mỗi lần đến sở làm là tôi
thấy căng thẳng, ngột ngạt, khó chịu. Đúng là một cực hình. Vì cần
có tiền đề gởi về Việt Nam, nên tôi đã tự ví mình như Kiều vào
chốn lầu xanh. Không thích công việc, nên tôi làm việc rất dở; tệ nữa
mới đúng. Lẽ ra họ đuổi tôi sau vài tuần làm việc, nhưng vì họ hiểu
con người và hoàn cảnh của tôi, nên họ để cho tôi làm đến hơn 3 năm.
Nhờ vậy, tôi đã thực hiện được những điều mà tôi mong ước khi cất
bước lên đường, tìm sự sống trong cái chết là lo cho gia đình.
Việc gì sẽ đến, đã đến. Tôi “được” cho nghỉ việc vào một buổi sáng
đẹp trời. Tôi vui mừng nhận quyết định và cám ơn họ. Đã từ lâu tôi
không thích công việc, nhưng không có can đảm tự xin nghỉ việc, vì
lương tháng và tiền tip quá lớn so với những việc làm khác. Nghe tin
bị cho nghỉ việc, các bạn đồng nghiệp đến chia buồn. Họ rất ngạc
nhiên thấy tôi bình thản, vui vẻ. Nghe tôi giải thích họ mới hiểu.
Đã mang nghiệp dĩ vào thân, tôi lại có dịp trở lại nghề dạy học.
Được biết Bilingual Education Institute ở Houston, Texas tuyển ESL và
Cultural Oriental Instructor (giảng viên dạy Anh Văn sinh ngữ 2 và hướng
dẫn đời sống văn hóa cho người mới nhập cư trong vòng 5 năm), tôi nạp
đơn xin việc. Đi phỏng vấn, nạp giáo án dạy Level 3, dự buổi dạy
diễn tập với năm dự tuyển viên khác, tôi là người duy nhất được hội
đồng giám khảo gồm có ba vị tuyển chọn làm giảng viên chính thức.
Giờ đầu vào lớp, quá sung suớng và cảm động, tôi đã không cầm được
nước mắt. Không thể nói thêm sau lời chào hỏi các học viên, tôi đứng
lặng yên, nước mắt chảy dài vì quá vui. Như cá gặp nước, tôi đã chu
toàn trách nhiệm với lòng nhiệt thành, tận tụy và thích thú. Liên
tiếp tôi được giấy khen và tăng lương đều đều. Gần mười lăm năm dạy
học ở Mỹ là thời gian hạnh phúc nhất trong quãng đời ly hương của
tôi.
Về hưu đã gần 6 năm, nay đã 74 “xuân xanh”, tôi chỉ mong ước là có
được cuộc sống bình an, mạnh khỏe, và nếu có về cõi hư vô thì chỉ
cầu xin một điều là “thăng” cho nhanh./.
Lê Đình Loan
cháu là người Huế, đọc xong câu chuyện đời của chú cháu rất cảm phục tinh thần hy sinh vì gia đình của chú. một kết thúc đầy hạnh phúc và trọn vẹn như vậy là phần thưởng cho sự nỗ lực tuyệt vời của chú. Cháu chúc chú và gia đình bình an hạnh phúc.