Hôm nay,  

Các Nữ Lưu Vùng Sound Puget Sound

19/03/201000:00:00(Xem: 298050)

Các Nữ Lưu Vùng Sound Puget Sound

Tác giả: Trương Tấn Thành
Bài số 2871 -1628991- vb6031910

Tác giả là cư dân Lacey, Washington State, tốt nghiệp MA, ngành giáo dục năm 2000, từng là nhà giáo trong ban giảng huấn tại trường dạy người da đỏ và giảng viên tại Đại học cộng đồng SPSCC, Olympia, WA. Ông là một tác giả rất nhiệt thành đóng góp bài vở cho giải thưởng Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải thưởng danh dự Viết Về Nước Mỹ năm 2005 với bài viết mang tên "Bà Mẹ Hoa Kỳ".     

***

Những phụ nữ mà tôi đề cập ở đây chỉ là môt số ít trong rất nhiều vị nữ lưu ở vùng đất bao la đầy hồ vịnh ở phía tây bắc của tiểu bang Washington này.  Họ cũng không phải là “tiêu biều” cho giới nào vì họ rất bình dị và ở mọi thành phần.  Có người có may mắn đến trường, có người không có được cơ hội đó nhưng họ cùng có chung đặc điểm đức tận tụy, hy sinh, lắm khi đầy can đảm và nhất là rất bình dị và thật thà.  Trước tiện tôi xin được nói về chị Thơm. (Vì lý do ngoài ý muốn, tôi xin đổi tên những nhân vật trong bài nhưng con người và hoàn cảnh của họ đều là có thật.)
Anh Dượng, chồng chị là bạn của tôi từ hồi tôi mới đặt chân đến vùng đất này (rất buồn là anh mới mất hồi năm rồi).  Ai mới gặp anh Dượng lần đầu đều bị… “dội đạn”.  Nghiã là hết hồn vì ciá mặt lúc nào cũng đỏ lơ như đang xỉn và đầu tóc thì  để dài như các sát thủ trong phim chưởng Hong kong! Tuy vậy, hãy khoan, xin đừng “trông mặt mà bắt hình dong” nhe, tính anh lại hiền như mấy sư huynh trong nhà thờ vậy. Có lẽ qua Mỹ anh đã chịu “cải tà quy chánh” vì theo như anh kể thì hồi còn ở bên xứ mình, anh cũng là một tay trong giới anh chị. Tuy vậy chị Thơm vẫn có vẽ còn nể ca uy vũ của anh.
Chị Thơm là một người vui tánh, chìu chồng và rầt thương con. Nóí về đức tính siêng năng thì ít ai bằng chị. Có thời gian chị lãnh hàng về nhà may ngày đêm, có tháng kiếm đuợc cả trên ba ngàn.  Cứ lúc nào tôi đến chơi đều thấy chị ngồi ở bàn máy, có lẽ phải hơn mười hai tiếng một ngày! Dù vậy bất cứ lúc nào chồng đi làm về, chị đều lo cơm nước tươm tất dù vì mệt mỏi anh hay lẩm bẩm càu nhàu. Thời gian đó còn độc thân nên tôi thường hay đến nhà ăn cơm với gia đình anh chị và để ý thấy dù chị bận rộn đến thế nhưng không lúc nào chị tỏ ra bưc bội vì sư có mặt thường xuyên của tôi. Đó là điều tôi luôn nhớ và cảm ơn chị.
Mỗi năm thường khi Tết đến, chị Thơm đều lên Seattle để mua lá, mua nếp, đậu xanh, thịt heo về nấu bánh tét. Cả ngày hôm đó chị thì lui cui nấu nếp, luộc thịt, nấu đậu, còn anh Dượng thì xếp lá chuối, cắt đây lạt làm tôi thấy hiện ra cả một muà xuân trước mắt mình. Cái nồi nấu bánh thật to đặt bên ngoài phòng sôi sung sục cả ngaỳ ba mươi với hơn cả chục đòn bánh no tròn, góí chắt nịt. Bánh của chị nấu khi đem biếu cho bạn bè ai ăn cũng khen là xuất xắc. Ngồi ăn miếng bánh cắt tròn trịa với thịt kho, dưa gía cũng của chị làm, tôi cảm thấy như mình đang ăn Tết ở nhà thuở nào. Vì lúc đó tôi còn “cu ki” và mướn phòng ở khu kế bên nên tới chơi gần như là hằng ngày mà không bao giờ thấy bị chị “đuổi chó, mắng mèo” gì cả. Quả thật chị là một người “đã giỏi chìu chồng lại khéo nuôi con”.
Mấy tháng trước đây, năm hai ngàn lẽ tư, anh chị đã mua đuợc can nhà còn it tuổi với số tiền phụ giúp của đứa con trai lớn đi làm tận trên Alaska. Giờ đây giấc mơ có nhàcủa gia đình chị và của riêng chị đã trở thành sự thật. Nhìn nét mặt rạng rỡ và đầy hảnh diện của chị khi chúng tôi đến ăn mừng tân gia tôi nhận thấy bao nhiêu công lao hy sinh, vất vã cho chồng cho con của chị đã được đền bù. Chị Thơm là một trong những người phụ nữ bình thường nhưng đối với tôi, chị không tầm thường chút nào cả.
Giờ xin được nói đến vị nữ lưu thứ hai.
Dì Tư Mây là một người đàn bà xông xáo và có tính mạnh dạn, cương quyết của đàn ông. Hồi còn ở bên nhà, dì vừa dạy may vừa làm chủ một tiệm may nổi tiếng ở thị xã Xứ Dừa. Sau khi được chồng bảo lãnh qua hồi cuối năm 92, dì đã tạo nên sự nghiệo cho chồng. Qua bên naỳ dì phải bỏ nghề may để đi clean nhà để kiếm tiền nhưng đóng góp chính của dì cho sự thành công của chồng là việc phụ làm vườn, làm cỏ với chồng. Nhờ tài tháo vát và nhanh lẹ cũng như khéo ngoại giao với khách hàng, công việc của anh chị ngaỳ càng thêm nhiều mối và từ từ khá hẵn lên.
Từ khởi đâu với một cái máy cắt cỏ khi dì chưa qua, giờ có tất cả trên tám cái máy cắt cỏ với không dưói bốn người phụ làm mỗi ngày thường xuyên, nhứt là vào mùa hè. Với óc tính toán bén nhạy, khéo miệng và xông xáo, dì đã nâng số khách hành và mối cắt cỏ của chồng lên thật nhanh. Cái đáng nói ở đây là nhờ biết cách đối xử với ngươi làm phụ và nhờ tính tình bình dị và rộng rãi của dì mà công việc làm ăn trở nên phát đạt.
Không phải như những người chủ khác, dì thật sự quan tâm đến người làm và sẵn sàng giúp khi họ cần. Trời nắng họ có nước ngọt uống, sinh nhật con mình họ đều có quà, cuối tháng ngày phát lương đều có món nhậu, trên bàn đầy nhóc bia Budweiser… Tính cách “bà chủ” không có ở con người của dì. Những nơi thiếu người làm là dì đi phụ cào lá, nhổ cỏ con. Tiền công trả ngươì làm hâu hỉnh và không so đo cắt xén giờ của ngươì làm. Có ngươì lái xe bị phạt, chạy máy cắt cỏ làm văng đá bể kiếng cửa sổ của khách hàng anh chị phải đền... họ vẫn không bị trừ đi tiền công. Mỗi tháng họ đều được trả tiền cho giờ đã làm không trể nải dù chồng của dì chưa nhận được checks thanh toánh của khách hàng.


Chính vì vậy mà trong khi ngươì đi làm cho những chủ khác “đào ngũ” hà rằm như lính đi đánh mướn, còn làm cho vợ chồng dì thì có người “tại ngũ” cả hơn saú năm vẫn còn. Hiện nay vợ chồng dì đã có một sự nghiệp vững chắc và điều đánhg nói ở đây là uy tín và cảm tình của người làm đối với vợ chồng dì vẫn vững bền, không hề suy giảm. Thành quảđó nếu không có dì thì tôi nghỉ là chắc chắn sẽ không được như ngaỳ nay.
Bây giờ xin được nói về chị Thiệt. Chị ở trên miệt Tây ninh thuộc một vùng xa tỉnh lỵ đến nỗi chị không có may mắn đi học để có thể đọc rành chữ Việt. Khi chồng đi vượt biền với đứa con trai lớn thì chị ở lại nuôi đứa nhỏ để chờ ngày được chồng bảo lãnh. Ngày đó đã đến với chị. Tôi còn nhớ ngày tôi và chồng chị cùng mấy ngừơi bạn lên phi trường đón chị qua. Chị mặc cái aó dài vải gấm ta trông thật là chân chất. Các bạn thử đặt mình vào địa vị của chị mới cảm nhận cái khổ tâm và nỗi lòng hoang mang mức nào khi đặt chân lên đất Mỹ này mà không biết một chữ.
Sau đó mỗi lần tôi đến chơi chị đang cố gắng ngaỳ đêm học tiếng Anh một cách thật khổ sở nhưng đầy kiện trì. Rồi  chị lại cố gắng học ngày đêm để thi lái xe và làm ai nấy đều phải phục chị sát đất khi chị thi đậu và có thể lái xe đi chợ mỗi ngày như ai! Dãy đất chung quanh căn phòng chị ở xanh um những rau cải do chị chăm bón hằng ngày. Mỗi tối trên bàn ăn của chị lúc nào cũng vun đầy rau thơm, hành hẹ và chị rất hãnh diện về thành quả do công sức vun bón đó của mình.
Đến mùa câu cá mực, dù trời đầy tuyết giá buốt lạnh, chị theo chồng đi câu ngày này qua tháng nọ để có ăn và cũng để cho bạn bè nữa.  Một thời gian sau chị sinh được một bé trai thật kháu khỉnh và khôn ngoan rất được chồng cưng vì “thằng này nó đẻ bọc điều”. Đưá bé ra đời tạo sự thiếu thốn trong nha. Trước nhu cầu khẩn thiết chị thấ mình phải đi học mọi nghề gì đó để kiếm thêm tiên. Chị đã dám một mình lái freeway lên đến tận Tacoma để học làm nail khi chữ nghĩa, tiếnh Anh tiếng u vẫn chưa rành. Tôi thật phục cái ý chí gang thép của chị.
Khi đi làm vì cái vốn học quá ít và thêm vào đó là bản chất chậm chạp của mình, chị không được mướn lâu dài. Bẳng đi một thời gian lâu tôi nghe chị được vào làm ở kho chứa hàng của cơ sở Good Will. Có lần hai vợ chồng tôi có ghé thăm chị và thấy chị có vẻ đã hội nhập được nhiều vào sinh hoạt của xứ này. Tuy vậy tôi vẫn cảm nhận đươc nổi khổ tâm về cáí kém may mắn về học vấn vẫn còn rầu rầu hiện trên nét mặt chân thật của chị.  Ý chí cứng như gang thép của chị, một người đàn bà quê không rành chữ nghĩa nhưng quyết chí tạo cho mình một chỗ đứng ở xứ lạ quê ngừơi gây trong tôi niềm kính phục. Chị hơn hẳn những người có nhiều điều kiện hơn chị nhưng không chịu làm gì đề vượt khỏi con người tầm thường chỉ biết an phận của mình.
Tương phản với chị Thiệt, chị Duyên là cô giáo trước năm 75 và có chồng cũng là trong nghề dạy học. Khi chồng bảo lãnh sang đây, chị hoạt động rất tích cực trong cộng đồng ở Olympia, nhất là trong lãnh vực giáo dục. Chị đã và đang là cô giáo cho trường Việt ngữ Hùng Vương ở Olympia. Ngoài việc dạy học, chị phụ trách phần dạy ca, múa cho các em và thành lập được một đoàn múa dân tộc cổ truyền để trình diễn khi có lễ hội ở quận hay trong những ngaỳ lễ Tết, vào dịp bải trường hằng năm. Chị còn soạn bài dạy cho các lớp Việt ngữ và đi tu nghiêp ở các khoá hội thảo về sư phạm do thầy Phan Ngô tổ chức ở California.
Chị tuy nhỏ con, gầy thấp nhưng làm việc tận lực để nâng cao phẩm chất giảng dạy của trường và nhất là lúc nào chị cũng tươi cười, niềm nở với mọi người. Chị quả là một nhà giáo có nhiệt tâm duy trì tiếng Việt cho thế hệ con em sinh ra và lớn lên ở bên này. Đối với chị “ không lo các em thua người về tiếng Mỹ mà chỉ sợ các em không nói, viết được tmình.” Chị luôn kêu goị tôi tiếp tục đảm nhận một lớp như tôi đã từng làm nhưng tôi rất tiếc vẫn chưa làm chị vui lòng được. Cáo lợi mà chị đem lại cho công đồng nói chung và cho các em sinh ra bên này, nói riêng là to tác đến mức không của cải vật chất nào so sánh được. Chị đã cống hiến rất nhiêu cho sự tồn vong của tiếng Việt ở vùng đất này. Chị xứng đáng được mọi người tri ơn và qúi trọng dù chị không hề giữ một chức vụ nào. Người như chị không cần phải có chức vụ mới làm được những chuyện “lợi dân, ích nước.” Chỉ với một tấm lòng yêu tiếng nói của dân tộc mình, chị đã quên đi những nổi nhọc nhằn, hư danh, những lợi ích cho bản thân để phục vụ cho công đồng này. Tôi tin rằng chị sẽ được nhắc mãi trên môi những trẻ nhỏ sinh ra ở đây khi chúng lớn lên và còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình.
Chúng ta rồi ai cũng sẽ từ giã chuyến đò đời, xuống ghe để đi qua thế giới hư vô. Chẳng ai đem theo được gì cả chi trừ những gì mình đã làm cho mọi ngươì và cái ý chí cố gắng vượt khỏi cái tầm thường của mình. Nếu nhìn kỹ lại chung quanh, ta sẽ thấy rất nhiều người, ở mọi giai tầng, giàu nghèo, học ít hay học nhiều, nam có nữ có, đã làm được việc đó.
Bài này được viết để nhớ đến anh Được, người bạn đã quá cố. Và cũng để cảm ơn Phương Trang của anh, em là một trong những nữ lưu đó./.
Trương Tấn Thành

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,969,539
Tác giả là cư dân miền Bắc California, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại.
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ, từng nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2018 năm thứ XIX.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2018 năm thứ XIX.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C.
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã dự Viết về nước Mỹ từ 2009. Ông cùng gia đình đến Mỹ từ 1994 theo diện HO, định cư tại Boston.
Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014, ông tên thật Trần Phương Ngôn, đã sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm
Tác giả đã nhận giải Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ 2014. Lớn lên tại VN khi cả nước đã thành xã hội chủ nghĩa
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa