Tác giả tên thật là Lại Ngọc Thành, sinh năm 1961, định cư tại Hoa Kỳ từ 1984, hiện là cư dân Houston, TX, công việc: Computer Engineer. Lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ ông cho biết đã sẵn sàng 10 bài. Sau đây là một trong loạt bài của ông.
*
"... Má ơi má cái anh này dê
Ảnh nắm tay con
"Tiền đây, em xài đi !"
Người Bắc Kỳ đâu có kỳ như vậy
Chắc là Trung Kỳ" Hay là Nam Kỳ ... “
Vợ tui đang nằm trên võng ru cái hĩm ngủ, vừa đưa tay vỗ về con bé, nàng vừa ca bài ca vọng cổ ở trên. Thằng Cu nhà tui đang ngồi chơi đồ chơi gần đó, nghe má nó ca ngộ quá bèn bò lại võng hỏi : "Má ơi, Bắc Kỳ là cái gì vậy má " Còn Trung Kỳ nữa " “
Nghe con trẻ hỏi mà lòng tui không khỏi xốn xang. Tui thường viết văn xu+ng là "tui", và bởi vì sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn nói giọng miền Nam tuy hổng đến nỗi chơn chất như dân Nam Kỳ lục tỉnh, nhưng đa số bạn bè đều đoán tui là dân miền Nam rặt, sinh quán đâu đó ở Cần Thơ Sa Déc Long Xuyên hay Rạch Giá. Thật ra ba tui quê quán ở tuốt ngoài Thái Bình, tỉnh lỵ xa lắc xa lơmà hồi trước năm 75 tui nghĩ sẽ không bao giờ mình có dịp đặt chưn đến đó để tìm xem nơi ba mình sinh trưởng ra sao, tìm về cội nguồn mà văn chương gọi một cách văn hoa bóng bẩy là Quê Cha Đất Tổ. Ba tui là một người hơi nghiêm nghị, ít gần gũi con cái, thành ra tui chẳng bao giờ dám mon men lại gần ông để hỏi về cái tỉnh lỵ hay làng quê mà ông đã lớn lên. Tui chỉ biết chắc một điều là làng quê của ba tui nghèo lắm, nghèo đến nỗi năm hăm mươi mấy tuổi (không có "đi vào quân đội và lòng thì chưa hề yêu ai" à nghen), ba tui phải bồng bế mẹ già và đứa em gái út mà ông thương nhứt trong mấy anh chị em, bươn chải vào Nam tìm miếng cơm manh áo. Tui chỉ còn biết tìm hiểu cuộc sống cơcực của ba tui qua hình ảnh túng bấn nghèo nàn nợ nần ngập đầu ngập cổ của Nhà Mẹ Lê của Thạch Lam, qua cái vất vưởng lang thang của Chí Phèo của Nam Cao, và thỉnh thoảng, qua một vài kỷ niệm mà Duyên Anh viết trong cuốn Hoa Thiên Lý.
Trên đường bôn ba vào Nam tìm miếng ăn, ba tui phải làm đủ thứ nghề, dừng chưn ở tỉnh này vài ba tuần, quận huyện nọ đôi ba tháng, tìm nơi "đất lành chim đậu ". Rồi ba tui gặp má tui ở Quảng Ngãi, một tỉnh ở miền Trung, nơi nổi tiếng có kẹo mạch nha và đường phổi, nơimà ông Phạm Đình Chương viết "Quê hương em nghèo lắm anh ơi Mùa đông thiếu áo Hè thời thiếu ăn". Rồi hai ông bà lấy nhau, ba tui gồng gánh thêm một người vợ trẻ, lại tiếp tục bươn chải vào Nam, và dừng chưn ở SàiGòn .
Sở dĩ hôm nay tui kể cho quí vị nghe một chút dìa thân thế của mình vì tui chợt tự hỏi hổng biết mình là người miền nào đây" Ba tui người bắc (ổng vẫn dùng chữ cái bát thay cho cái chén, cái thìa thay cho cái muỗng), má tui thỉnh thoảng vẫn trọ trẹ vài tiếng trung, còn anh chị em tui, từ đứa lớn cho tới đứa bé, vì sinh đẻ ở Sài Gòn, nên đứa nào cũng nói rặt một giọngSàiGòn, "Châu ơi ta bảo châu này Châu ga ngoài guộng châu cày dới ta". Tụi tui nói "đi dìa", nói "dăng mùng coi chừng muỗi cắn" thay vì "đi về", "giăng màn coi chừng muỗi đốt" ..., ngoài cái giọng Sài Gòn, tụi tui còn dùng chữ miền Nam khi nói chuyện, và cũng như bạn thấy đó, khi viết, tui ưng viết theo kiểu mộc mạc như nói của người dân miền Nam .
Sau năm 75 nhà tui có khá nhiều họ hàng từ ngoài Bắc vào thăm, những người mà tui cảm thấy giữa tui với họ tuycó một chút liên hệ máu mủ (đại bác bắn ba năm hổng thấy tới), nhưng thiệt là xa cách. Mang tiếng là anh chị em họ, nhưng từ cách ăn bận suy nghĩ và nói chuyện, tui cảm thấy hổng biết bao giờ mình mới hòa đồng. Có lần ông anh họ tui vô Sài Gòn chơi, ổng ngồi coi ti vithấy cô xướng ngôn viên mặc cái áo dài in đầy hoa, ổng chép miệng: "Gớm, áo gì mà hoa khiếp thế. Ở nách cũng có hoa!".
Lần khác ổng hỏi thăm chồng chị Hai tui đâu sao không thấy, chị Hai tui nói dạ ảnh đang học tập ngoài Vĩnh Phú, thằng cha anh họ của tui bày đặt an ủi: "Em viết thư khuyên nó tranh thủ mà lao động cho tốt vào. Có nợ máu với nhân dân mà còn được khoan hồng thì phải rán mà phấn đấu khắc phục ". Bà chị Hai tui liếc thằng chả bằng nửa con mắt, và từ đó trở đi bả hổng thèm nói chuyện với mấy người anh chị em họ của tui ngoài bắc vào thăm nữa, sợ bị lên lớp!
NGỌC DUY