Hôm nay,  

lẻ loi ...

20/06/202406:00:00(Xem: 1897)
TG Phan Khoi nguyen VVNM 2018 cat banh tai le trao giai VVNM 2018
Tác giả Phan - Khôi Nguyên VVNM 2018 đang cắt bánh trong Lễ Trao Giải VVNM 2018

 

Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.


*

Khi một mình trong tứ bề hiu quạnh nên tự thân cảm thấy lẻ loi. Đó là cảm nhận riêng tôi khi ngồi đợi xe đò ở vùng kinh tế mới. Thời ấy không mấy ai có cái đồng hồ đeo tay để biết giờ giấc, chỉ biết giấc sáng sớm khi mặt trời chưa mọc sẽ có chuyến xe đò duy nhất trong ngày về Sài gòn, là xe ngày hôm qua từ Sài gòn lên.
 
Nhớ những hôm sương mù bao phủ núi rừng nên tầm nhìn hạn chế càng cô độc vì cô quạnh, cảm giác lẻ loi len lỏi vào tâm khảm hay từ trong tâm khảm lan toả ra núi rừng âm u, sự lẻ loi và bất lực cho đến khi có ánh đèn vàng mờ đục xuất hiện trong màn sương mù đặc như nước vo gạo là mừng rỡ hôm nay được về nhà vì nhiều hôm ngồi đợi tới mặt trời mọc cũng không có xe vì xe hư xe hỏng gì đó, người ta không chạy. Thời quá độ xe xăng dầu trước hoà bình chuyển đổi thành xe than sau hoà bình thì trời biết đất biết chứ không ai biết được việc đón xe đò thì cứ đón nhưng xe có chạy được hay không? Tóm lại là muốn về Sài gòn thì phải đi ngủ sớm rồi giật mình tỉnh giấc cũng chả biết đã mấy giờ, lê thân ra lề đường ngủ ngồi đợi xe vì mỗi ngày chỉ có một chuyến, trễ xe là hôm sau đợi tiếp chứ không có cách khác. Còn lại gì với thời quá độ ấy ngoài cảm giác lẻ loi, cô độc ngay trên quê hương mình.
 
Đến thời đi dạy học ở vùng biển cũng vậy, mỗi hai giờ đêm có chuyến đò về thành phố. Nếu ngủ trong trường tới nghe tiếng còi tàu mới ra bến đò thì không kịp nên định ngày mai về Sài gòn thì tối nay đi chơi, đi nhậu tới xóm biển không còn ai thức thì ra cầu đò ngủ luôn cho kịp đò. Cảm giác lẻ loi ở cầu đò cũng không khác nơi núi rừng kinh tế mới, khác chăng nơi núi rừng âm u và nơi sông nước mênh mông chỉ là ngoại cảnh, tâm trạng không khác gì với sự cô lẻ trong tâm.
 
Nhưng qua Mỹ mới biết sự lẻ loi không bình thường với nơi hoang vắng như ở quê nhà. Một hôm cuối năm, đang làm thì tuyết rơi ngoài khung cửa nên ai muốn về sớm thì về. Tôi về với ý muốn đi mua quà giáng sinh cho hai đứa con nhỏ chứ không sợ tuyết vì tuyết miền nam không đến nỗi bão tuyết như ở miền bắc. Lang thang một mình trong rừng người xa lạ ở khu thương mại sầm uất gần nhà một lát, tôi đứng nghỉ chân chỗ hai cái thang cuộn, nhìn hai dòng người một lên một xuống, người tay xách nách mang, người nói cười thoả thích… Người đâu mà đông như trẩy hội, nhưng cảm giác lẻ loi nơi núi rừng, nơi sông nước xa xưa hiện về bởi giữa rừng người mắt xanh tóc vàng, kẻ đầu đen mũi tẹt không ngửi được mùi đồng bào trong mùi đồng loại. Đứng tho ló nhìn hai dòng người lên xuống thang cuốn như những con sóng bất tận ở biển quê nhà… Đó là cảm giác lẻ loi của người xa xứ khi năm hết tết đến. Người ta đông như kiến cỏ nhưng không ai nói tiếng Việt cả, chỉ thoáng thấy cái nón lá ở cầu thang cuộn đã mừng như gặp lại quê hương, nhưng người đội nón lá tan biến vào đám đông và mất dạng. Niềm vui thơm phức chưa kịp ngửi đã thành nỗi buồn thiu.
 
Nhớ cái không khí náo nhiệt, ơi ới ở chợ Sài gòn những ngày giáp tết đâu ai thích hoà mình vào cuộc chín người mười ý ngoài chợ ấy, nhưng khi lẻ loi ở hải ngoại lại chợt thèm nghe tiếng mời chào của người bán, tiếng trả giá của người mua; tiếng rao hàng mang âm vực điạ phương về đặc sản quê người bán, tiếng mấy đứa nhỏ xe kéo bắt khách cứ nhặng xị lên ồn ả tớí nhức đầu nhưng trong lòng không cô độc, không có sự cô quạnh bên trong.
 
Cố quên đi thoáng lòng hoài hương của người xa xứ, cuối cùng tôi cũng mua được cái máy nghe nhạc nhỏ nhỏ của người đi bộ thể dục thường dùng về làm quà cho thằng lớn đợi xe bus học trò, mua được cái xe đua đồ chơi điện tử, dùng remote control cho thằng nhỏ làm quà Giáng sinh. Không mua nên không trả lại được sự lẻ loi chỗ đông người ở Mỹ của người di dân khi năm cùng tháng tận.
 
Lẻ loi là một hiện tượng tâm lý hoàn toàn, nhưng tâm sinh lý trong con người lại không tách biệt ra được nên tâm lý vui thì sinh lý cơ thể cũng kháng kiện hơn người ủ rũ mãi thể lực cũng hao mòn tới suy tàn. Trong đời sống tôi quan sát được cứ một cặp vợ chồng già, không cần biết ông hay bà đi trước, nhưng điều có thể biết trước được là người còn sẽ không sống lâu đâu, chỉ vài năm sau khi người phối ngẫu qua đời thì người còn ở lại cũng đi luôn vì lẻ loi. Điều tôi quan sát thấy nhưng không có bằng chứng vì không ghi chép lại những trường hợp cụ thể để chứng minh thì nay ngẫu nhiên như bằng chứng xác thực.
 
Hồi xưa tôi đi câu đập Texoma bên Oklahoma thường lắm vì muốn ăn cá striper nướng hay nấu canh chua thơm ăn với bún là hết sảy thì lên đó mới có, hồ Lavon gần nhà chỉ có cá white bass chiên giòn cuốn bánh tráng thôi. Nhưng bây giờ ngại lái xe đường xa nên có người bạn câu còn trẻ ở gần nhà, thỉnh thoảng anh ấy chở tôi đi câu xa những hôm tôi khoẻ.
 
Trên Lake Texoma thì nhiều bãi câu, tôi thích câu đập, nước cuồn cuộn mới có cá lớn, vui nhất là hàng người cần câu vác vai, móc mồi câu sẵn sàng nhưng phải tới lượt mình thì ném câu ngay trên đỉnh đập rồi từ từ dời xuống cuối đập cho người khác tiếp tục. Luật bất thành văn nơi bãi câu nhưng ai không tuân thủ sẽ gặp rắc rối, có thể bị đập tại trận với những người đi câu nóng tính. Rất vui khi một người dính cá thì cả đập rần rần hô vang “fish on”, cứ như ngoài trận người ta hô “xung phong” vậy, mọi người nhường lối cho người dính cá vì cá lớn cắn câu nó chạy dữ lắm. Gặp cá lớn quá thì giúp nhau vô điều kiện, không phân biệt màu da, tiếng nói… miễn bắt được con cá lên bờ, không phải của mình nhưng không biết sao trong lòng vẫn vui như mình câu được.
 
Nhưng bạn tôi đây là đứa trẻ qua Mỹ hồi mấy tuổi, anh ta ngại đông người trên đập vì ghét nghe tiếng chửi thề của người Việt nam nên anh ta thường câu bãi vắng, càng ít người càng tốt. Thế là anh giới thiệu cho ông bà bạn của anh đã nhiều năm, hai ông bà Mỹ trắng đã già nhưng họ mạnh khoẻ, vui vẻ và không hề kỳ thị.
 
Nói tới hoà đồng thì đầu đen tôi có kinh nghiệm khi đi câu: Nếu muốn câu chỗ đã có người câu thì nên hỏi họ trước, “tôi có thể câu ở đây với bạn được không?” Khi nào họ đồng ý thì hãy câu, đừng xồng xộc đến không chào đi không nói với cái vô văn hoá mặc áo tự do, dân chủ, hồ là nơi công cộng, ai muốn câu đâu thì câu, cớ gì phải xin phép? Người Mỹ họ ghét những kẻ bất lịch sự, gặp người Mỹ kỳ thị nhưng hiền thì họ lặng lẽ rời đi nơi khác, họ không cho phép họ đứng câu cùng người vô văn hoá chứ chẳng phải họ sợ mình đâu. Người không hiền sẽ để lại đôi lời, cái nhìn vô cảm khi họ nói với con chó của họ dắt theo, “thôi đi chỗ khác câu, heo Trung quốc đến rồi!” Gặp kẻ dữ thì họ chửi thẳng vào mặt người đến sau bất nhã rồi mới bỏ đi; kẻ dữ hơn nữa là đuổi người đến sau đi chỗ khác, họ văng tục chửi thề, sẵn sàng đánh lộn… và người châu Á nói chung là không ngại làm điều không nên với người khác, không ngại bất nhã hay ăn hiếp người khác, nhưng gặp kẻ khác người thì như chó cụp đuôi lỏn lẻn bỏ đi, chửi thầm là chửi mình nhưng là sở trường của người châu Á.
 
Nhờ có kinh nghiệm nên tôi cũng quý mến ông bà Mỹ trắng bạn của bạn tôi lắm. Ông tên Robert và bà tên Dayna, hai ông bà ra hồ mỗi ngày vì về hưu rồi thì làm gì cho hết thời gian, họ tung tăng bên nhau trong không khí trong lành, có lợi cho sức khoẻ là chính, câu cá là phụ. Ông câu cá rất chuyên nghiệp, người đam mê câu nên ông giàu kinh nghiệm, nhìn nước, nhìn gió mà ông đoán được bầy cá đang ở đâu, cá gì ông cũng biết luôn. Ông dạy chúng tôi nhiều kinh nghiệm quý giá như cách xác định bầy cá đang di chuyển hay tụ lại, nhưng còn tùy thời tiết, tùy sáng hay chiều hay đêm, trời đang mưa, trời muốn mưa, hay trời mới dứt mưa, trời nắng gắt hay nắng mây… phải câu mồi nổi hay mồi chìm, mồi lửng không chìm không nổi… Câu mồi thật hay mồi giả, mồi thật thì chịu có mồi gì câu mồi nấy, nhưng mồi giả thì đa dạng, phong phú như kệ nước sơn trong tiệm nail, phải rành cá thích gì chiều nấy mới có thu hoạch.
 
Còn bà thì đi chơi theo ông, bà cũng vui tính và tử tế, người yêu thiên nhiên nên bà hay nhặt rác ngoài bãi câu, chẳng bao giờ phiền hà người xả rác. Có lẽ người Mỹ làm chủ đất nước to lớn của họ bằng hành động nhỏ như nhặt rác cho bãi câu sạch đẹp, hồ câu không bị ô nhiễm nước, họ không biết làm chủ đất nước nhỏ bé bằng những tấm khẩu hiệu to ngoài đầu ngõ những con hẻm ngập rác như: “Khu phố văn hoá”; “Hẻm văn hoá”… Sự khác biệt trong mắt người di dân thật xin lỗi sự thật.
 
Hai ông bà thích mấy anh em Việt Nam chúng tôi vì chúng tôi hiền, không gấu ó với nhau, hoà nhã với mọi người, không uống bia ngoài bãi câu rồi ném lon, vỏ chai bia lung tung… Chúng tôi câu đêm thì nấu mì gói, mì ly ngoài bãi câu, mời ông bà ăn chung cho vui. Hai ông bà tham gia nhiệt tình, nên còn mì gói, mì ly trên xe, chúng tôi cho hai ông bà đem về nhà ăn luôn vì họ thích. Chúng tôi cũng có một trao đổi không thoả đáng chút nào với ông bà là một cá striper có giá trị bằng năm con cá catfish cùng trọng lượng, nhưng ông bà chỉ ăn catfish mà không ăn striper. Nên chúng tôi câu được catfish thì cho ông bà vì ông bà câu được cá striper thì cho chúng tôi, không kể mắc rẻ, lớn nhỏ, nhiều hay ít gì hết.
 
Hầu như lần nào tôi đi câu với bạn câu trẻ gần nhà cũng gặp ông bà vì tôi bây giờ thỉnh thoảng mới đi câu xa. Anh bạn trẻ những hôm ghiền câu thì ra làm là đi câu luôn, không về nhà nên không đón tôi đi cùng được. Có hôm tôi đã đi ngủ thì anh mới về, gọi tôi mở cửa ra lấy cá striper của ông Robert gởi cho anh. Thương quá đi ông già Mỹ thích mì chua cay của Việt nam, bà vợ Dayna thích mì Hảo Hảo dễ ăn như há cảo, dumlings bà đã ăn ở nhà hàng Tàu, nhà hàng Việt… Nên tôi mua sẵn mì chua cay, ghi luôn bên ngoài thùng mì “tặng Mr. Robert, mua thùng mì Hảo Hảo đề tặng bà Dayna. Hễ tôi đi Oklahoma là nhà có sẵn để mang theo tặng ông bà…
 
Nhưng đầu mùa câu năm nay, trời tháng Ba còn lạnh, ngoài hồ lạnh hơn trong thành phố chừng mười tới mười lăm độ nữa tùy gió nên tôi cắm câu rồi vô xe ngồi, sợ cảm lạnh. Xa xa, dáng người giống ông Robert nhưng sao không thấy bà vợ Dayna. Tôi nói người bạn trẻ, rồi chúng tôi ngưng câu, đến hỏi thăm ông. Rất buồn, bà Dayna đã được Chúa gọi hôm cuối năm nên giờ trên bãi câu thân quen đã vắng hình bóng bà tới mênh mông nỗi nhớ. Ông già Robert với cây cần câu bạc màu mưa nắng lẻ loi tới mủi lòng người quen biết ông bà.
 
Hôm ấy, ông câu được striper nên đem đến cho chúng tôi, chúng tôi câu được catfish đem đến cho ông thì ông không lấy. Sự thật không ngờ là ông không ăn cá, bà ăn catfish chiên bột nên ông đem về nhà làm cho bà ăn chứ ông không ăn. Giờ bà không còn thì ông đem catfish về nhà làm gì nữa… Bỗng nỗi buồn xâm chiếm cả hồn tôi, nhớ những món bà xã không ăn nhưng vẫn làm cho tôi ăn, những món tôi cũng không ăn nhưng hai đứa con lại thích thì mẹ chúng vẫn làm cho chúng ăn; tôi như đại biểu của đàn ông đương đại chỉ giỏi cái miệng nói sống cho, sống vì người khác, nhưng đàn bà lại thường làm những việc không nói ra. Trong đàn ông nhiều như rác thải dạt vô bờ hồ bây giờ không biết còn được mấy ông Robert?
 
Còn nhớ hôm ấy gặp ông, tôi cố nén xúc động trước tin buồn bà đã qua đời. Cố không tin cảm nhận về ông trông xuống sắc, già sọp hẳn đi so với nét già vui vẻ, khoẻ mạnh của ông trước đó. Hôm nay nghỉ lễ Chiến sĩ trận vong, tôi với anh bạn trẻ đi thăm ông Robert hơn là đi câu xa nhà. Chúng tôi dự định đến bãi câu không gặp thì đến nhà ông vì lần trước gặp ông đã cho chúng tôi địa chỉ nhà, ông còn dặn chúng tôi muốn câu qua đêm hay muốn nghỉ đêm để sáng câu sớm thì cứ nghé nhà ông ngủ qua đêm, nhà bây giờ còn mỗi mình ông nên rộng lắm. Nhưng tờ mờ sáng ngày Chiến sĩ trận vong, bóng ngưới trong sương mờ ngoài hồ không ai khác chính là ông Robert. Ông đứng thẳng người như đang làm lễ truy điệu, lễ tưởng niệm, hai tay khoanh trước ngực và nhìn ra sóng hồ lăn tăn trong buổi tờ mờ sáng sóng yên gió lặng… không có cây cần câu bên ông.
 
Không gian tĩnh lặng của buổi sớm ngoài hồ thêm u tịch thì phải vì trời nhiều mây đen dù dự báo thời tiết hôm nay không mưa nguyên ngày, tới tám giờ tối trời mới mưa giông, gió mạnh. Tôi nhìn ông không khỏi xót xa cho dáng vẻ tôi từng biết ông là ông già vui tính, mạnh khoẻ, bộ râu quai nón bạc trắng nhưng rất đẹp của ông thật xót xa như bông lau tháng mười lưa thưa, xơ xác, ông gầy đi nhiều và lão rõ với sống lưng khòm xuống. Ông không còn là ông già trong mơ ước của tôi khi mình già ước được như ông, nay ông là ông lão gần đất xa trời, râu tóc không thèm cắt tỉa, chải chuốt gì nữa cho hợp với đôi mắt lạc thần, giọng nói hết sang sảng như ông già Robert mà tôi từng ái mộ…
 
Chia tay ông, trên đường về bạn tôi hỏi sao hôm nay anh không nói chuyện… Tôi nói nổi nữa sao khi tin tưởng vào những gì tôi đã quan sát thấy cả đời, vợ chồng già không cần biết ai đi trước thì người kia cũng đi theo mau chóng thôi vì cuộc sống đâu còn ý nghĩa gì nữa mà thiết tha. Tôi tìm được trên điện thoại và đọc cho anh bạn trẻ nghe bài thơ “đôi dép”.
 
Bài thơ đầu anh viết tặng cho em
Là bài thơ anh kể về đôi dép
Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết
Những vật tầm thường cũng viết thành thơ

Hai chiếc dép kia gặp gỡ tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi, cùng nhau

Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao
Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp
Dẫu vinh, nhục không đi cùng người khác
Số phận chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia.

Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu

Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh

Đôi dép vô tri khăng khít bước song hành
Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối
Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội
Lối đi nào cũng có mặt cả đôi.

Không thể thiếu nhau trên những bước đường đời
Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải - trái
Như tôi yêu em ở những điều ngược lại
Gắn bó đời nhau vì một lối đi chung.

Hai mảnh đời thầm lặng bước song song
Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc
Chỉ còn một là không còn gì hết
Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia.
 
Anh bạn trẻ rành tiếng Anh hơn tiếng Việt nhưng trong máu có chất nước mắm nên cảm thụ được bài thơ Việt ngữ, anh nói tôi gởi link cho em để về nhà cho vợ em đọc. Vợ chồng em lớn lên bên đây, học trường Mỹ, nói tiếng Mỹ, ăn fastfood, không biết về Việt nam nhiều… vợ em bây giờ còn nói và đọc tiếng Việt giỏi hơn em vì có bà ngoại trò chuyện mỗi ngày, trong khi em một mình bao năm qua tới quên tiếng Việt luôn rồi, nhiều khi nói chuyện với anh em cứ phải dùng kèm tiếng Anh vì đâu nhớ tiếng Việt nói sao…
Em cũng cố gắng nói tiếng Việt với con em, nhưng nói sai hơn cả tụi nó vì tụi nó nói tiếng Việt với bà ngoại nhiều hơn em. Anh còn nhớ hôm tuần trước, hai anh em mình đi câu không được con cá nào hết. Hôm đó em rủ anh đi vì em đi làm về thì thằng con nhỏ của em nói nó muốn ăn cá ba chiên, nhưng câu không có cá nên trên đường về, em gọi cho nó có anh nghe rõ trong xe, em nói ba câu không có cá để chiên cho con ăn. Ba chở bác về rồi ghé mua gà chiên cho con ăn được không? Rõ ràng là nó nói được, còn dặn không mua thịt đùi, giai lắm, nó không ăn đâu… nhưng em mua gà chiên về nhà thì nó không ăn, đòi ăn mì gói. Em nói hồi sáng con nói với ba là ăn gà chiên mà…? Nó hơi suy nghĩ rồi chơi em một vố đau thiệt! Nó không thèm nói gì tới gà chiên nữa mà nói với em, “Ba nói sai rồi! Ba phải nói là hồi nãy chứ không phải hồi sáng! Hồi sáng là lúc mình ngủ dậy, ăn breakfast. Hồi trưa là mình ăn lunch. Hồi chiều là mẹ kêu đi tắm. Hồi tối là ba kêu đi ngủ. Hỗi nãy… là mới tức thì. Bà ngoại nói là mới hồi nãy, mới tức thì… bà ngoại để cây kẹo chocolate ở đây mà. Không biết con mèo con chuột nào tha mất rồi… Hì hì, là con đó! Hồi nãy là some minutes ago, không phải là hồi sáng như ba nói.” Em quê thiệt. Con mới bảy tuổi mà rành tiếng Việt hơn em vì nó nói tiếng Việt với bà ngoại thường. Em bây giờ nói buổi sáng, buổi chiều, hồi nãy, hồi nào… tiếng Anh quen miệng nên quên tiếng Việt…
 
Về ngồi nhà ngày nghỉ lễ nhưng trong lòng không quên đi hình ảnh ông Robert được, chiếc dép lẻ loi bên đời hiu quạnh lay lắt nắng mưa cũng tới ngày tan biến vào hư vô, nhưng ai lại đi cầu cho người khác sớm lên thiên đàng, nhất là người bạn mà mình thương mến. Nhưng linh cảm gặp ông lần này không có lần sau vì một cần thủ lão luyện, lão làng như ông mà ra hồ không đem theo cần câu thì coi như rửa tay, gác kiếm rồi còn gì. Chỉ còn biết cầu nguyện cho ông còn sức khoẻ cho tới hôm cuối ông ra hồ tìm dấu chân bà trên cát…

 

Phan

Ý kiến bạn đọc
27/06/202422:07:47
Khách
Bài viết hay quá, Cảm ơn Tác giả.
21/06/202423:02:03
Khách
Hay lắm! Cám ơn tác giả
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,463
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Nhạc sĩ Cung Tiến