Hôm nay,  

góc quán tháng tư…

30/04/202309:50:00(Xem: 3224)

30 thang 4 2

 

Hôm qua thứ bảy, gần đi ngủ mới nhận được tin nhắn của sếp là đồ phụ tùng đã về, mong mọi người đi làm thứ bảy. Nói tóm lại lời nhắn tin là một sự mong cầu, hy vọng được giúp đỡ chứ không phải lệnh ban ra, bắt buộc mọi người vì báo tin quá trễ. Liền tiếp theo nhận được tin nhắn của hai ông bạn rủ nhậu từ chiều thứ sáu, nhưng tôi từ chối vì bận việc riêng. Hai ông đành dừng bữa nhậu cuối tuần dang dở để sáng thứ bảy còn đi làm vì lời nhắn tin của sếp không bắt buộc nên họ quyết định ngưng nhậu để đi làm thứ bảy như một sự hồi đáp bà sếp biết điều.

 

   Tôi lên giường tối thứ sáu với suy nghĩ bình thường như nhiều người bạn, ngày xưa mong được đi làm thứ bảy để có thêm thu nhập, lương lại gấp rưỡi ngày thường nên tạo vây cánh trong hãng để đi làm thứ bảy. Những người không phe phái nên không được đi làm thứ bảy đành chuyển hướng đi làm nhà hàng hai ngày cuối tuần, hay bất cứ một công việc phụ nào đó để có thêm thu nhập vào hai ngày cuối tuần, có thể nói “nghỉ” không có trong tự điển của người di dân mới định cư. Ngày xưa, cái ngày xưa ấy có xa xôi gì với vài chục năm, với chính những con người ấy bây giờ đi làm thứ bảy như một miễng cưỡng, chẳng đặng đừng thì họ mới đi. Nói vậy, rất dễ hiểu lầm là mọi người đã giàu có hết rồi nên không cần làm thêm thứ bảy nữa. Không phải đâu, vì đã giàu thì ai còn đi làm làm gì với cái ngày xưa đã vài chục tuổi mới đến được nơi này, cộng thêm vài chục năm không thấy mặt trời vì sáng đi thì mặt trới chưa mọc, tối về mặt trời đã lặn từ hồi nào, suốt ngày chỉ biết ánh đèn trong hãng xưởng, nhà hàng, xưởng may, tiệm neo, tiệm giặt... Đến bốn bức tường còn biết ủ rũ thời gian huống hồ con người, nhìn ảnh chụp trên tấm thẻ ra vào hãng, ai cũng trẻ măng; chỉ khi nhìn đến độ cũ, sự bạc màu theo thời gian của tấm thẻ mới tin cái mặt già háp kia không xài thẻ giả.

 

   Vài chục năm, không biết có đáng được xem như hạt bụi trong vũ trụ thời gian tính tỷ tỷ năm, nhưng vài chục năm đã nửa đời người. Đứa bé sinh ra ngày mất nước đã gần năm mươi tuổi, cuộc đời đã nếm trải bao thăng trầm vinh nhục, đã có lúc thở dài với ngũ thập tri thiên mệnh đến rồi. Đỏ hay đen cũng nửa đời đã thành quá khứ, đen hay đỏ nửa đời sau cũng chỉ biết dựa vào sức mình. Không ai thấy cái lưng mình như không ai thấy sự thay đổi của chính mình, nhưng thời gian trả lời người di dân cố bảo tồn tiếng mẹ đẻ, phogn tục tập quán, món ăn quê nhà thì được. Nhưng mưa lâu thấm đất, ở đây riết không phải sinh lười, chỉ sống với người Mỹ nên biết cơ thể cần nghỉ ngơi, tinh thần cần thư giãn. Nên chưa giàu cũng không nên đi làm thứ bảy, chủ nhật vì đã từng nhưng cũng có giàu đâu, và nghỉ trọn vẹn hai ngày cuối tuần cũng không nghèo hơn hồi mới sang đây…

 

   Sáng nay chủ nhật, trời trở lạnh bất thường vì đêm qua gió mưa. Ba anh em chúng tôi lại rủ rê nhau ra quán cà phê ngồi tận hưởng trời mát khi mùa nóng đã về. Mới mấy hôm trước, trời tám chín mươi độ, người trong hãng cứ giành nhau mấy cây quạt chạy không thấy mát chỉ nghe ù tai, nhức đầu. Mùa lạnh thì không ai chịu để cây quạt chỗ mình cho chật chội, nhưng mùa nóng thì giành nhau như báu vật của đời, làm cho người giỏi tiếng Anh trở thành vô dụng vì không dám nói, người nói tiếng Anh không rành lại la làng, đình công, đòi bỏ việc ra về… cũng là một thay đổi mà người di dân không nhìn ra mình khác xưa cứ im thin thít dù bằng lòng hay không? Nhưng sự việc chỉ khiến người bảo trì trong hãng khó xử vì ông ta nhận lệnh từ cấp trên, ông ta chỉ được điều chỉnh máy điều hoà xuống tới bảy mươi hai độ thôi, xuống thấp nữa thì tiền điện hãng trả không nổi đâu! Không phải hãng mà là chủ hãng, chủ người Canada khi xưa không ngại mùa hè thấy nhân viên mặc áo lạnh trong hãng, nhưng chủ mới người Ấn độ, không ngại nhân viên khoả thân trong giờ làm. Chắc vậy!

 

   Sáng nay trời như mùa thu đã về, dưới năm mươi độ thì ngồi quán cà phê với cái áo lạnh mỏng mỏng, nói chuyện tháng tư và quê nhà, biến cố lịch sử ảnh hưởng nhiều thế hệ, thay đổi nhiều con người; thay đổi nhất thời và thay đổi vĩnh viễn tùy hoàn cảnh, tùy người…

 

    Một người bạn tôi nói, “có lẽ thế hệ mình là những người cuối cùng nói về ngày ba mươi tháng tư. Đời con mình sẽ không ai nói tới nữa vì nửa phần không biết gì về biến cố ấy, nửa phần còn lại thì không quan tâm…” Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta và hỏi, “vậy chứ anh biết gì về ngày ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm?” Anh hùng hồn trả lời, “Biết chứ sao không biết! Cha tôi đi lính nên không biết tin tức là còn sống hay đã chết, hiện đang ở đâu? Mẹ tôi không tự quyết định được nên cứ theo xóm làng mà chạy giặc. Giặc ở sau lưng, dân chạy tới đâu thì giặc chạy tới đó. Tôi tám tuổi, cõng thằng em bốn tuổi trên lưng; mẹ tôi ẵm con nhỏ em út hai tuổi. Vậy mà bốn mẹ con chạy miết từ Đà nẵng vào tới Sài gòn. Hy vọng tá túc người bà con đã vào Sài gòn lập nghiệp, giàu có, thì người bà con đã bỏ nhà bỏ cửa đi nước ngoài. Mấy mẹ con tôi hết đường chạy nên hết sợ Việt cộng, lặn lội về lại Đà nẵng… thì cha tôi lại lặn lội vào Sài gòn để tìm kiếm vợ con. Cả nhà tôi tìm nhau không thôi đã cả năm trời, tôi có học hành gì đâu. Không phải tàu xe khó mà cha mẹ tôi đâu có tiền tàu xe, phải tìm việc làm và dành dụm tiền tàu xa để đi tìm nhau nên cả năm trời gia đình mới đoàn tụ. Tôi về quê đi chăn bò mướn cho người ta, mẹ tôi đi làm mướn cho người nào cho ẵm con theo thì làm vì em gái tôi còn quá nhỏ, thằng em trai may mắn nhất là được ông bà ngoại nuôi dùm… Cha tôi tìm được vợ thì thêm đứa con nữa còn ông đi tù cải tạo. Tôi trở thành trụ cột gia đình khi mới mười tuổi đầu…”

 

   Người bạn trẻ nhất trong ba người chỉ cười nhăn răng khi nghe tâm sự vì anh biết gì đâu, năm bảy lăm em còn trong ngón chân cái ba em vì em sinh năm một chín tám mươi lận mà… Tôi cũng biết gì đâu mà tưởng mình biết nhiều như anh bạn người Đà nẵng, cùng lắm biết máy bay chiến đấu bay như xé toang, xé toạc bầu trời với âm thanh rùng rợn, tiếng bom dội xuống nổ long trời lở đất. Tiếng pháo kích của Việt cộng là trò chơi tuổi nhỏ vì đứa nào tuột xuống hầm trú ẩn trước nhất sẽ được khen thưởng. Đến ngày định mệnh của quê nhà thì chứng kiến người chết bên vệ đường, người chết không thân nhân đã đủ thành ký ức chiến tranh cho một đứa bé sống trong thôn xóm hiền hoà, đi học được cô giáo dạy khi thấy xe tang phải đứng lại với tư thế nghiêm, ngả mũ tiễn biệt người quá cố. Cũng đứa bé đó không gặp lại cô giáo để hỏi phải làm gì với người chết hai lần thịt da nát tan như nhạc Trịnh, người chết như hắt rổ tôm ra sân ở bến tàu, cầu cảng, sân bay…

 

   Tôi biết về cuộc chiến tương tàn ở quê mình qua sách vở là chính, nhưng qua những nhân chứng sống đáng tin cậy là ở quán cà phê này. Những người có tên tuổi ngày xưa như bác Giai (cố thiếu tướng Đỗ Kế Giai) của Quân lực Việt nam Cộng hoà. Những lúc vui, bác trò chuyện với đời sau về sự thật lịch sử bên ly cà phê hải ngoại vẫn đen xì như tiền đồ dân tộc. Cố thiếu tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh Sư đoàn 18) cũng từng ngồi quán này trò chuyện với thân hữu Dallas. Biết bao người tên tuổi từng ngồi đây, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, luật sư, bác sĩ của Việt nam cộng hoà, có cả danh thủ túc cầu huyền thoại của miền nam là sư phụ Tam Lang cũng từng ngồi xuống bàn cà phê với đồng bào hải ngoại khi ông có dịp ghé thăm. Xin mạn phép được dùng từ “sư phụ” khi nói tới danh thủ Tam Lang vì ông thực sự là sư phụ của tôi khi ông làm huấn luyện viên đội bóng Trẻ Cảng Sài gòn. Nhưng trên hết vẫn là biết bao người lính cũ từng ngồi đây trong màu áo không còn binh chủng; áo thợ sửa xe, áo thợ sửa nhà, áo thợ sơn, áo người quét dọn hành lang trong bệnh viện, trường học… Khi người ta buông cây súng xuống thì không còn đổ nát nên không còn binh chủng; khi mặc áo thợ như nhau thì ai cũng làm công việc xây dựng. Tôi nghĩ thầm thôi chứ đâu dám nói ra với chú bác, đàn anh ở quán cà phê này.

 

   Tôi biết về lịch sử qua những nhân chứng sống để kính trọng họ hơn những trang sách mô tả theo thiên kiến người viết hơn sự thật lịch sử, những nhân chứng sống như sự tương phản để đối chiếu với những trang sách đã đọc. Lịch sử là bộ môn đòi hỏi thời gian để kiểm chứng, lịch sử về về cuộc chiến ý thức hệ càng khó vì người viết sách nào chả có thiên kiến lệch về một bên. Những nhà viết sử miền nam đương nhiên nhìn vào cuộc chiến qua lăng kính tự do, dân chủ của hai nền Cộng hoà; ngược lại những nhà viết sử của miền bắc thì không thoát ra được đường lối, chính sách của đảng lãnh đạo.

 

   Nhưng chân dung của cuộc chiến Việt nam từ khó có được chân dung đích thực đã tới hồi kết sau nửa thế kỷ không có tác phẩm văn học nào được cả hai bên công nhận là chân dung lịch sử. Sáng nay ngồi với hai người bạn thuộc thế hệ con em của lính. Ngẫm nghĩ về nhận định của người bạn Đà Nẵng, “có lẽ thế hệ mình là thế hệ cuối cùng còn nói về chiến tranh Việt nam…” Không muốn công nhận nhận định của anh ta vì chưa hết hy vọng khải hoàn cho miền nam Việt nam, nhưng cũng không có lý do chính đáng nào để chống trả cái nhận định đáng buồn ấy. Chỉ có sự thật chua xót phơi bày trong ký ức về góc quán kia, ngày xưa, ông lính già nào thường ngồi sau ngày làm việc. Ngày cuối tuần, mấy ông binh chủng tụ họp rôm rả góc này, góc nọ mấy ông Địa phương quân, Nghĩa quân thầm lặng như chính họ khi chưa gãy súng tháng ba, tháng tư. Mấy ông cảnh sát già ngồi bàn trung lập ở giữa quán như vẫn thi hành nhiệm vụ giữ gìn trật tự công cộng cho đồng bào… Ôi những người lính cũ hôm nào đeo tấm thẻ bài trên cổ như vật bất ly thân, cộng thêm năm mươi năm cuộc chiến tàn nên nay họ không ở ngoài nghĩa trang thì ở trong Viện dưỡng lão. Thế hệ cuối cùng còn nhớ, còn nói về chiến tranh Việt nam khi tháng tư về trong hiểu biết nông cạn của danh nghĩa cũng là chứng nhân lịch sử, nhưng chỉ là chứng nhân chạy giặc như tôi với bạn tôi. Những chứng nhân tham chiến đã…

 

   Góc quán tháng tư bái biệt những người lính cũ đã lui về quá khứ, những nhân chứng chạy giặc ngồi điền đơn về hưu non vì chạy đã quá nửa đời người, hết sức. Những lớp người Việt trẻ chỉ biết sơ sơ về cuộc chiến trong lịch sử Việt nam vì có cha anh là lính cũ, họ lịch sự lắng nghe hơn muốn hiểu biết. Những người trẻ du sinh đang đặt cược đời mình trên bàn cà phê ở hải ngoại về tương lai không ngoài tiền bạc. Họ đã đến được Mỹ với dứt khoát từ đầu là không trở về nên họ thậm chí còn không muốn nghe về hai từ Việt nam. Họ tìm cách ở lại Mỹ, kẻ chưa tìm được cách thì tiếp tục tìm bằng cách cứ đi làm nuôi thân, học hoài không tốt nghiệp cái gì hết thì không bị đuồi về cho tới khi có cơ hội được ở lại bằng hình thức khác như kết hôn với người có quốc tịch. Kẻ đã được ở lại thì lo kiếm tiền, nghe những người bạn trẻ du sinh nói ra những câu rởn gai ốc khi đã kết hôn được với bạn học có quốc tịch, “Anh ta phải có trong tay một triệu đô la trước tuổi ba mươi. Ba mươi tuổi mà chưa thành triệu phú thì tự tử chết quách đi cho rồi…” Anh ta không dám nói ra nhưng ngụ ý khinh thường người sống ở Mỹ đã mấy chục năm vẫn đi bấm thẻ ăn giờ. Anh phải khác, sẽ khác, và chờ xem sự khác biệt của văn hoá kim tiền xã hội chủ nghĩa…

 

    Năm mươi năm là quãng thời gian không đáng kể trong vũ trụ tính tỷ tỷ năm, nhưng là nửa đời người, là ba thế hệ: Thế hệ tham chiến, thế hệ chạy giặc, thế hệ bỏ nước ra đi để làm giàu. Có lẽ nhìn lại từng góc quán một lần để tưởng niệm những bậc cha chú, đàn anh đã ngồi và trò chuyện với đời sau để chúng tôi hiểu biết hơn về chiến tranh ở quê nhà.

 

   Lần bái biệt nào không ngậm ngùi, nhưng lần bái biệt này không phải chuyện cá nhân, không phải chuyện riêng tư. Lần này bái biệt cha anh sau nửa thế kỷ chiến cuộc tàn, trở lại đây làm gì nữa khi những người lính cũ đã vắng bóng. Người lính cuối cùng của cuộc chiến Việt nam đã ở tuổi xưa nay hiếm nên góc quán tháng tư xin nhường chỗ cho thế hệ không biết nơi đâu là chốn quê nhà…

 

Phan

Ý kiến bạn đọc
15/05/202315:06:42
Khách
Bạn được có thể bình phẩm truyện hay hoặc dở. Đó là quyền của độc giả. Nhưng thái độ châm biếm như thế này thật là khiếm nhã. Nếu tôi có tài viết văn, chắc chắn tôi sẽ ngần ngại khi gửi bài cho VVNM vì những bình luận thiếu tôn trọng này.
05/05/202322:18:16
Khách
Quý ông Nate mới làm thơ lần đầu mà đã hay và có ý nghĩa như vậy, thật là đáng khen! Xin vui lòng tiếp tục xuất khẩu thành thi vào những lần tới nhé :). Socrates
01/05/202317:17:24
Khách
Người đọc chưa bao giờ làm thơ với thẩn. Nhưng khi đọc bài này bèn tức khẩu thành thi cho mỗi một đoạn văn [paragraph] vì ý tưởng nhẩy [tùm lum] giống như:

- "Hôm qua thứ bảy,............................" = Con cóc trong hang
- "Tôi lên giường tối............................" = Con cóc nằm đó
- "Vài chục năm, ................................." = Con cóc cuồng chân
- "Sáng nay chủ nhật............................" = Con cóc nhảy ngang
- "Sáng nay trời như............................." = Con cóc nhảy dọc
- "Một người bạn tôi nói,......................" = Con cóc gặp bạn
- "Người bạn trẻ nhất............................" = Con cóc khoái tỉ
- "Tôi biết về cuộc................................" = Con cóc quen lớn
- "Tôi biết về lịch sử............................." = Con cóc hiểu nhiều
- "Nhưng chân dung của......................." = Con cóc lý sự
- "Góc quán tháng tư............................" = Con cóc thấm mệt
- "Năm mươi năm là............................." = Con cóc nhẩy về
- "Lần bái biệt nào không ngậm ngùi..." = Con cóc đi ngủ./.

P.S: Khả năng của người đọc chỉ có vậy. Độc giả nào giỏi hơn, xin cứ tự nhiên múa bút khoe tài. Biết đâu, thời vận tới thì công danh/sự nghiệp văn chương bay cao hơn diều gặp gió.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 554,705
Năm tháng trôi qua, bao nhiêu lượt người đến đi, không có gì xảy ra; bà quen dần với những người khách trọ xa lạ, tự cho mình là chủ quán trọ. Bà tế nhị quan sát cách sinh hoạt, lời ăn tiếng nói của từng vị khách, đánh giá từng người, xã giao vừa phải. Bà nghĩ xử thế làm sao để khi người ta đi vẫn giữ được thiện cảm với nhau.
Cuối năm 2021 tôi về hưu sau khi đã làm việc 31 năm ở công ty, nhận được một cái Rolex sau 25 năm, một đồng hồ Apple sau 30 năm, một đồng hồ grandfather clock treo tường, một đồng hồ để bàn bằng gỗ đỏ sang cả quí phái, một đĩa bạc “ghi công” để chưng bày khoe khoang tại phòng khách. Mọi thứ đồ đoàng có trong kho mình đều thu tóm cả. Bây giờ thì về đi thôi! Lúc này tôi mới nghĩ đến nơi ăn chốn ở trong giai đoạn mới của cuộc đời. Ngày xưa còn miệt mài cày bừa trả nợ nhà, nợ xe, nợ “con”, mình gồng mình vớt lấy một căn nhà trong khu trường tốt, vượt cả khả năng tài chính, để rồi phải nhịn ăn nhịn mặc, còng lưng trả tiền nhà mút chỉ hụt hơi. Nay con đã lớn, thôi thì nhường khu này lại cho những cặp vợ chồng trẻ đang nhắm nhía trường xịn cho con họ.
Lúc tôi viết bài 32 Năm Người Mỹ Và Tôi, đã cảm thấy là “coi bộ vợ chồng mình cũng bền vững dữ há, nhứt là khi ngôn ngữ bất đồng, Đông Tây không gặp nhau” Những tưởng sẽ còn sống với nhau cho tới khi ăn được cái ngày kỷ niệm “ lễ cưới hột xoàn” chớ, ngờ đâu, mới hơn 53 năm anh bỏ tôi, mau chóng ra đi một mình.
Tác giả Phi Nguyễn lần đầu tham dự VVNM với bài "Trái mít". Bà sinh sống và làm việc tại thành phố Brunswick, Georgia. Đây là bài mới nhất của Bà, viết để chia xẻ một kinh nghiệm chìa khóa xe bỗng dưng không mở được cửa nữa và những điều cần phải làm sau đó thay vì hoảng sợ.
Tôi bấm chuông và đứng đợi. Mùi hương thoảng nhẹ trong không khí khiến tôi chú ý đến mấy khóm hồng dọc hai bên lối vào. Những cụm hồng nhung đủ màu mới vài ngày trước còn đẹp rực rỡ, vậy mà giờ đây đã xuống sắc, cánh hoa rơi tan tác vương vãi khắp nơi. Tôi nhìn lên tấm bảng nhà dưỡng lão (Residential Care Home) và bỗng thấy lòng chùng xuống. Bên trong cánh cửa này, có bao cuộc đời từng một thời tung hoành ngang dọc, nhưng nay họ đều đang thập thò bước thấp bước cao đi vào đoạn cuối đời, cho dù có an phận sẵn sàng hay vẫn còn luyến tiếc.
Nhờ Đi Dự Đám Cưới Cô Cháu, Tôi Biết Có Những Người Bị Đồng Bệnh Mắt Với Mình Để Chia Sẻ Thứ bảy tuần vừa qua April 8th, 2023. Toàn thể đại gia đình chúng tôi đã đi dự tiệc cưới của cô cháu, con gái của cô em tôi. Trong buổi tiệc cưới ấy, chúng tôi ngồi cùng bàn với cha mẹ của cô dâu. Mọi người trong bàn đều nhìn nhau bằng ánh mắt băn khoăn, như tự hỏi, sao không thấy sự hiện diện của hai ông bác, là anh của ba cô dâu. Mặc dù thắc mắc như vậy, nhưng mọi người hơi ngần ngại, chưa ai dám cất lời hỏi cả. Thần giao cách cảm! Như đã nằm lòng, đoán biết thế nào cũng có người hỏi về sự vắng mặt của hai ông anh mình. Với sắc thái nhạy cảm, ba của cô dâu đã lên tiếng trước để chia sẻ với chúng tôi là cả hai bác đều bị bệnh đau mắt giống nhau, nên không ai dám lái xe nữa, vì khi lái xe, nhìn xa thấy cái gì cũng nhiều gấp đôi, bảng tên đường, lằn gạch vẽ trên mặt đường, mũi tên quẹo phải, hay trái và những đèn đường toàn là nhiều nhân gấp hai lần, nên sợ quá, bỏ lái xe luôn.
Tôi từng đi Mỹ thăm gia đình từ thập niên 90 của thế kỷ trước, nhưng lần này thì khác, sau 14 năm chờ đợi, thật ra tôi nhận được giấy báo của NVC (National Visa Center) năm 2019 chuẩn bị hồ sơ đến Tòa Đại Sứ Mỹ tại Paris cho buổi phỏng vấn đi Mỹ. Nhưng dịch covid đã treo buổi phỏng vấn vô thời hạn, tôi tự hỏi có nên phiêu lưu làm lại cuộc đời lần thứ hai vào tuổi đã xế chiều ?
Cây cam trước cửa sổ phòng làm việc của bà Vi đã nở đầy hoa, dày đặc những chùm hoa trắng nõn nà. Một số cánh hoa từ từ rụng xuống để lại những chùm trái nhỏ xíu lấm tấm như những đầu chiếc đinh ghim mầu xanh ngộ nghĩnh. Sáng nay bà Vi dậy sớm, thư thả ngồi nhìn ra cửa sổ, mải mê ngắm hai con chim đang bay ra bay vào xây cái ổ tít trên cành cao của cây cam. Chiếc tổ chim vừa hoàn thành, những sợi cỏ khô mỏng mảnh đã được bện thành một cái tổ gọn gàng, nhỏ bằng hai bàn tay chụm lại. Chúng khôn quá, xây tổ trên cành cam, khi chim con ra đời sẽ được thưởng thức mùi hương hoa cam thơm ngát. Bà mỉm cười nghĩ thầm, rồi rảo mắt nhìn ra phía vườn sau.
Ông nhếch môi cười chua xót ngẫm lại cuộc đời mình: tuổi trẻ làm người lính VNCH, rồi bị tù hơn 13 năm, cũng mộng ước như bao nhiêu người khác nghĩ đến tổ quốc thân yêu, nhưng rồi lực bất tòng tâm, quay đi bước lại soi gương đầu đã bạc. Ông chạnh nhớ người vợ đầy xót xa đau ruột, chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ trong thời gian ông bị tù đày. Qua Mỹ tìm tiểu bang Minnesota lập nghiệp, vợ chồng làm việc siêng năng, bắt tay vào cuộc sống cày bừa gầy dựng tương lai, lo các con ăn học và muốn an cư lạc nghiệp. Các con tốt nghiệp ra trường, lập gia đình và có cuộc sống riêng. Một ngày mùa hè người vợ bỏ cuộc với căn bệnh tàn nhẫn, dứt áo ra đi khi tuổi đời chưa tới 60. Ông chới với hỏng chân, tinh thần suy sụp chỉ biết mượn rượu uống cho say, công việc bỏ bê bị laid-off. Ông chẳng còn thiết sống, nhà cửa do vợ chồng gầy dựng tưởng sống tới bạc đầu, bù đắp những ngày khốn cùng cay nghiệt ở VN, thế mà vợ chồng ông đã đầu hàng... buông hết. Con trai sợ ông sinh bệnh ép về ở chung để chăm sóc,
Việc gì Bố làm, ai cũng tấm tắc khen. Trong mắt tôi, Bố thật tuyệt vời. Vậy mà bố không biết chữ! Lúc còn nhỏ, tôi không hề biết rằng, những chuyện do bản năng như đi đứng nằm ngồi thì không cần phải học. Còn lại không học thì không biết, bằng chứng khi học lớp hai, tôi đã biết đạp xe vù vù, trong khi nhiều bạn trong lớp cho tới lớp năm, vẫn chưa biết đạp xe. Lớn lên ở vùng sông nước, Bố cũng tập cho tôi bơi như con rái cá khi còn rất nhỏ, nên trong mắt các bạn, Bố thật cừ khôi. Từ khi biết Bố mù chữ, tôi không còn cười toe toét mỗi khi nghe các bạn khen bố nữa. Có một cái gì "lấn cấn" mà tôi không nói được: bực bội, mặc cảm, giận dỗi! Bây giờ tôi rất ngại ngùng, khi đi cùng Bố đến những nơi hội họp đông người, nhất là khi có mặt Bố mẹ của các bạn trong lớp. Bố của bạn này là Bác Sĩ, mẹ của bạn kia là cô giáo.
Nhạc sĩ Cung Tiến