Hôm nay,  

Bạn Của Bạn

12/12/202211:33:00(Xem: 4596)


 

Tác giả qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018, ông đã nhận giải đặc biệt về Huế Tết Mậu Thân với bài viết về một gia đình bên cầu Bạch Hổ Huế, có người cha toàn thân bị cộng sản chôn sống.


*

 

Bạn tôi mời tôi đến nhà nó ăn tiệc. Tôi đến hơi trễ nên mọi chỗ ngồi đều đã có người, chỉ còn hai ghế trống ở hai bên một khứa già nên tôi đến ngồi cạnh khứa. Chắc các bạn thắc mắc, tại sao tôi lại có ác cảm gọi lão ta bằng khứa. Các bạn cứ đọc hết đi rồi sẽ hiểu vì sao.

 

Tôi vừa ngồi xuống, khứa liến thoắng nói:

 

- Chào chú. Tôi tên Đô, sống ở ngoại ô, thành phố Garden Grove.

 

Tôi hơi bực vì khứa ta trông ngang tuổi mà lại gọi tôi bằng chú, nhưng tôi dằn lòng, giới thiệu tên với khứa. Khứa nhìn vào mắt tôi dò xét, xem tôi phản ứng với câu chào hỏi của khứa vừa rồi ra sao. Tôi đoán chắc, khứa luôn dùng câu này để chào hỏi những người mới gặp mặt lần đầu.

 

Khứa đưa mặt tới sát mặt tôi, nói lung tung đủ thứ chuyện, hết chuyện gia đình rồi đến công việc. Đối lại, tôi chỉ ầm ừ cho qua hoặc cười trừ. Bây giờ tôi mới biết, tại sao không ai dám ngồi gần khứa trong bàn tiệc. Khứa nói như nhổ toẹt tất cả những gì có trong đầu khứa vào mặt tôi. Khứa càng nói càng hăng máu, nói đến văng cả nước miếng vào mặt, vào tay tôi. Tôi dám chắc, ít nhất cũng có cả trăm hạt bọt nước miếng từ miệng khứa bắn vào đĩa thức ăn của tôi. Tôi không dám ăn gì, chỉ khư khư cầm chai bia xa ra khỏi miệng khứa.

 

Thấy tôi ngồi im không ăn, khứa lăng xăng gắp thức ăn bằng chính đôi đũa đang ăn của khứa, bỏ vào đĩa cho tôi. Khứa nói:

 

- Ăn đi chú. Chú chắc bảy mươi bó rồi há?

 

Tôi hít một hơi thật sâu để tĩnh lại cơn tức, rồi đáp:

 

- Tôi trẻ hơn số tuổi đó nhiều.

 

- Trẻ hơn là bao nhiêu, chú nói thật đi, nhìn mặt chú già hơn bảy mươi đó.

 

Tôi quay mặt nhìn chỗ khác không thèm cãi lại. Tôi giận hết sức, quên luôn cả tấm lòng trắc ẩn, quảng đại của mình, tôi chửi thầm, “Mẹ kiếp, xui tận mạng. Sao ngồi gần phải cái chủng loại ruột ngựa phổi bò, hời hợt, vô duyên bản năng, tào lao, nhảm nhí, bệnh thần kinh nói bất kể trời đất, nói thiên thu bất tận, nói như chưa từng được nói bao giờ vậy nè trời”.

 

Một cô từ trong bếp bước ra, ngồi vào chiếc ghế trống còn lại cạnh khứa, có lẽ là vợ của khứa ta. Thấy tôi không muốn nói chuyện, khứa quay qua nói chuyện với những người khác. Khứa nói luôn miệng, không ngừng, liến thoắng kể thao thao bất tuyệt hết chuyện này qua chuyện khác. Thấy mọi người có vẻ không mặn mà lắm với những chuyện của khứa kể, khứa đứng dậy bắt đầu lảm nhảm pha trò, cứ như trong bàn tiệc không ai biết nói chuyện hay như khứa vậy. Vợ khứa vội nắm lấy thắt lưng quần của khứa, kéo khứa ngồi xuống. Ngồi xuống được một lát, khứa chồm người tới trước, nói với cặp vợ chồng ngồi đối diện bên kia bàn:

 

- Chị này là mẹ của anh hả?

 

Chị vợ tái mặt, cúi gầm mặt. Còn anh chồng mặt bừng đỏ rần lên, nói:

 

- Đây là vợ tôi.

 

- Thế à. Tại mặt chị nhà già quá nên…

 

Vợ khứa xấu hổ vội nói chữa:

 

- Chồng tôi nói đùa đấy.

 

Vợ khứa liên tục bấu năm ngón tay vào đùi khứa dưới gầm bàn. Khứa hất tay vợ ra, nói tiếp:

 

- Chị nuôi anh sao mà trông anh trẻ nhìn như hai mẹ con thế.

 

Vợ khứa chịu hết nổi, chẳng nể mặt chồng, nói:

 

- Anh bớt vô duyên, bớt nói đi được không.

 

Thấy không còn ai để nói chuyện, khứa lại quay sang tôi. Tôi sợ lắm nên vội đứng dậy, đi nhà vệ sinh. Khứa cũng đứng dậy đi theo tôi. Tôi hoảng quá đi nhanh hơn thì khứa cũng đi nhanh theo. Để chắc rằng, khứa điên này không phải là đi theo mình, tôi tăng tốc đi như chạy. Lập tức khứa tăng tốc, chạy qua mặt tôi, vào phòng vệ sinh trước. Khứa không đóng cửa phòng vệ sinh, khứa nói:

 

- Vào đi, đàn ông không mà. Giọng khứa khản đi, có lẽ vì nói nhiều quá rồi.

 

Tôi quay người 180 độ, đi trở về bàn và kéo ghế tới chỗ khác ngồi. Tôi sợ, nếu ngồi gần khứa

 thêm nữa thì tôi sẽ không kiểm soát được mình. Chủ nhà, bạn tôi, đến cười hỏi:

 

- Sao lại đổi chỗ ngồi thế?

 

- Thằng bạn ruột để ngoài da của mày làm tao bầm gan tím ruột, chẳng ăn nhậu gì được.

 

- Tuy nó ăn nói như gà mổ thốc, nhưng nó sống rất có tình.

 

Các bạn cũng biết, tôi hay kể chuyện đời thường của tôi, những chuyện tôi gặp, chứ không có ý nói đến những người tốt bụng, bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, hoặc chê những người không có khả năng nhận ra là mình đang có lời nói, hành động khiếm nhã với những người chung quanh.

 

***

 

Mấy hôm nay, tôi buồn quá. Chẳng ai lại nói không buồn khi bị người khác la mắng, chê trách mình, nếu nói không buồn chút nào thì có thể bạn là thánh nhân rồi cũng nên.

 

Chuyện buồn của tôi là có một bác, không biết họ hàng hay quen biết như thế nào, gọi điện thoại trách mắng tôi đủ điều. Tôi thường không nói chuyện điện thoại vì nói một hai câu, tôi không biết nói gì nữa. Tóm lại là tôi “tám” không được dai và dài. Đã ngại nói chuyện, lại gặp số lạ nên tôi không bắt máy. Số phone lạ gọi hai ba lần, sợ có chuyện khẩn cấp gì nên tôi bắt máy.

 

Tôi vừa bắt phone, bác ấy mắng xối xả:

 

- Tại sao không nghe điện thoại liền? Mày lên facebook viết vớ vẩn linh tinh gì thế? Ai bảo mày viết chuyện đấy ra hả? Khôn thì dẹp ngay đi. Hiểu không?

 

Tôi hoảng hồn, không biết mình đang nói chuyện với ai. Tôi ngập ngừng thưa:

 

- Dạ, em nhiều chuyện quá nên không biết chuyện mô làm bác giận rứa hỉ.

 

Bác ấy nói to:

 

- Mày nói qua giọng Nam đi, giọng trọ trẹ của mày khó nghe quá. Hiểu không?

 

Chắc bác ấy giận luôn cả giọng nói của mình. Tôi thưa:

 

- Dạ em không biết nói giọng Nam.

 

- Thế thì nói giọng Bắc.

 

- Giọng Bắc em cũng không nói được mô. Bọ mạ em cả hai đều là người Trung.

 

- Thế thì mày nói chậm lại. Hiểu không?

 

Hơ! Bác ấy làm như tôi đang nói tiếng Anh, tiếng Mỹ không bằng. Có rất nhiều người Miền Trung nói được giọng cả ba miền. Khi nói với người miền nào, họ đổi qua giọng miền đó cho dễ nghe. Tôi không có tài đó bạn à.

 

Trở lại chuyện bác ấy. Tôi nói chậm rãi:

 

- Bác nói em viết linh tinh là răng, em không hiểu tề.

 

- Hừ, tao cứ tưởng mày viết gì hay ho lắm, mất thì giờ đọc. Mày viết thế để làm gì hả?

 

- Dạ em có biết mô. Tôi không biết tôi viết để làm gì thật, chắc rảnh rỗi sinh nông nổi.

 

Bác ấy hỏi tiếp:

 

- Ai cho phép mày lấy chuyện đời tao viết lên facebook hả?

 

Tôi ngạc nhiên:

 

- Em có biết đời bác ra răng mô mà viết. Em chỉ viết chuyện đời Lựu của em không mà bác.

 

Bác ấy giận dữ:

 

- Giỡn mặt hả. Mày im đi, có một chuyện giống đời tao. Hiểu không?

 

Tôi đáp:

 

- Có thể là trùng hợp, thôi em xin lỗi bác hỉ.

 

Giọng bác ấy dịu xuống:

 

- Lần sau muốn viết chuyện đời tao thì phải xin phép, nhớ chưa.

 

Tôi hỏi:

 

- Dạ thưa bác tên chi?

 

Bác ấy quát:

 

- Hỏi bạn mày ấy, mà mày cũng không cần biết tao là ai, tên gì. Hiểu không?

 

Nói xong, bác ấy cúp phone cái rụp. Chuyện vậy có buồn không kia chứ!

 

Tôi có người bạn cũng có chuyện buồn hơi giống tôi. Bạn ấy làm thơ và viết báo, có nhiều bài đăng trên các báo địa phương. Vì ngày càng ít người mua sách báo, nên bạn ấy thử đưa những tác phẩm của mình lên các trang mạng. Bạn ấy than thở:

 

- Độc giả trên mạng khó tính quá. Viết chuyện buồn thì cho uỷ mị, viết vui thì bị chê là xàm xí.

 

Tôi nói:

 

- Họ khó tính rứa để mi cẩn thận hơn khi viết đó mà.

 

Bạn ấy than tiếp:

 

- Độc giả sách báo, đọc xong dù thích hay không, họ cũng không biết tác giả ở đâu mà phê bình. Độc giả trên mạng, đọc xong họ phản hồi hay bình luận ngay, thấy cũng phấn khởi, được động viên tinh thần, nhưng nhiều lúc sợ không dám viết gì luôn.

 

Tôi nói:

 

- Có thể họ bình luận theo cảm xúc vui hay buồn. Đang vui mà đọc bài thơ thất tình, chán đời của mi thì họ thấy không hay rồi. Hoặc độc giả vừa bị vợ la, đang bực bội, đọc phải bài viết hài hước thì cho là vô duyên tệ.

 

- Có khi hôm trước họ vào khen bài thơ, bài viết hay quá, hôm sau lại chê tầm phào. Chẳng biết đường nào mà lần.

 

- Độc giả trên mạng, có người đọc hàng tá sách, sự hiểu biết hơi nhiều nên thấy các bài đơn sơ thì chê chẳng cao siêu triết lý gì. Có người từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ đọc hết một cuốn sách, làm răng bình luận như một nhà phê bình văn học được. Dù mi viết cái chi cũng có người chê bai. Mi thử trích một đoạn văn thơ của các văn nhân, thi sĩ nổi tiếng đưa lên mạng mà không đề tên tác giả thì vẫn bị moi ra lỗi để chê.

 

Bạn ấy lại than thở:

 

- Biết vậy, nhưng tao vẫn buồn. Vợ tao nói, thà ông làm tài xế xe tải kiếm cơm còn hơn, chứ làm nhà thơ nhà báo lấy gì ăn. Vợ tao hiền từ khuyên, quay đầu là bờ nếu không thì ba đời nhà ông chẳng ngốc đầu lên được, biết không.

 

Tôi an ủi bạn:

 

- Vợ không bao giờ sai hỉ.

 

Trong đời làm gì có ai chưa từng bị chê trách trước mặt hoặc sau lưng, nếu không vậy thì làm sao gọi là thế gian. Dù buồn, đau khổ khi bị chỉ trích, trách mắng, nhưng cứ thân thiện, cởi mở, bạn sẽ được mọi người quí mến.


Lời triết lý vụn trên, không phải để khuyên các bạn đâu. Tôi viết lời đó để tự làm vơi đi nỗi buồn của tôi thôi. Chúc các bạn sức khoẻ, lạc quan yêu đời, hàng ngày tràn ngập những niềm vui và gặp nhiều may mắn.

 

Phước An Thy

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 495,469
Ngồi một mình trong căn phòng vắng, mọi người đang vui chơi ở đâu đó cuối tuần để lại cho tôi một cơ hội, một dịp mà tôi thích lắm, thích nhất từ ngày đặt chân đến đất Mỹ, đó là một không gian riêng tư cho mình Những ngày bơ vơ lạc loài bước chân ngỡ ngàng đến Mỹ. Ngày đó ai cũng như nhau là cùng sống chen chút nhau thật đông trong những căn nhà mướn, căn phòng quá tải… nhưng thôi điều đó không thật sự làm buồn phiền tôi, nhưng tôi chỉ ao ước cho tôi một khoảng không gian, thời gian yên tĩnh cho tôi quá khó , không hề có...
Vắt qua dòng sông có đến mười mấy cây cầu, những cây cầu bằng sắt thép, kiểu cách như cầu Bình Lợi, Bình Triệu vậy… Những cây cầu có tuổi đời năm mươi năm, một trăm năm nhưng vẫn tiếp tục trách vụ kết nối đôi bờ. Có những cây cầu quay, mở ra để cho tàu thuyền qua lại, ngày nay nó đã không còn được sử dụng nữa. Nó được kéo cao lên và giữ nguyên như thế để làm di tích lịch sử. Những cây cầu mở ngày xưa giờ trở thành nhân chứng cho một thời vàng son chưa xa lắm.
Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!
Ông Chương thức dậy thật sớm sau một đêm khó ngủ trằn trọc, dù ông đã nghe mấy bài phật pháp do thầy Pháp Hòa giảng để dỗ giấc ngủ. Bên ngoài cây cỏ còn ngái ngủ dưới lớp sương dày đặc, chưa thấy mặt trời lên. Ông rón rén đi pha cà phê thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây tiếng động làm mất giấc ngủ cả nhà...Tách cà phê thơm phức nóng hổi gây cho ông cảm giác dễ chịu. Ông lặng yên như đang lật trang đời từ ngày qua định cư nước Mỹ …Nhớ ngày miền Nam bị mất, ông đi tù 5 năm trở về, lúc ấy ông chỉ mới ngoài 30 tuổi, người yêu đã sang ngang, cùng lúc mất tất cả. Ông chán chường cuộc sống chẳng thiết gì nữa, nhưng mấy năm sau duyên nợ đến cho ông gặp được cô giáo dạy mầm non tên Dung, không chê ông nghèo tối ngày đi “dọc đường gió bụi”. Hai người nên duyên và hơn năm sau cháu Việt ra đời, đến cháu Nga, cháu Nguyệt, và con trai út là cháu Quân. Gia đình ông ở ké nhà mẹ vợ, ông làm đủ thứ nghề ai kêu gì chạy đó, sau có được chiếc xe đạp thồ đón khách.
Sáng thứ Bảy cuối tháng 5 trời trở lạnh với mây mù và vài thoáng mưa phùn. Tự nhiên tôi chạnh lòng nhớ đến đàn chị Nguyễn Tinh Châu. Mai là ngày giỗ 3 năm của Chị. Thời gian qua thật nhanh. Sự ra đi của Chị quả là một mất mát lớn cho Hội YKH chúng ta, không những vì Chị là một trong những hội viên kỳ cựu, mà vì những hoạt động xã hội đắc lực của chị trong kêu gọi và thành lập quỹ cứu trợ nạn nhân cho nhiều thiên tai tại Mỹ, Nhật (Tsunami, 2011), Phi Luật Tân (Typhon Haiyan, 2013) và ngay cả Việt Nam (Bão Xangsane, 2006)…Và nhất là quỹ tương trợ hàng năm nhằm giúp đỡ các Thương Phế Binh sống cùng cực tại quê nhà. Con số đóng góp luân chuyển từ 8 ngàn đô cho đến 10 ngàn đô nói lên được sự nhiệt tình của Chị và của anh chị em chúng ta cho một mục đích chung, đúng, xứng đáng, nhân nghĩa và truyền thống.
Hồi đó, trong những kỹ sư mới ra trường về làm cho Bưu Điện, anh là một người tôi không ưa nhất, và có lẽ tôi cũng là người anh ghét nhất. Anh đẹp trai, con nhà giàu, mỗi cái tội mặt kênh kênh và cái giọng Huế. Cái giọng nói nặng trịch, oang oang sao mà khó ưa. Không những tôi mà cả mấy đứa bạn cùng cơ quan mỗi khi thấy anh đi ngang là che miệng cười nhái: đi mô rứa tề. Tôi ghét nhất là có lần anh lái xế hộp chở mấy ông bạn đi uống cafe, thấy tôi đi ngang mấy người bạn bảo dừng xe rủ tôi đi cùng, anh nói kệ nó, cái con nhỏ phách lối. Sau này thân nhau rồi, có lần tôi hỏi tại sao anh làm vậy, anh trả lời, “Lúc nào cũng thấy mấy thằng bạn cùng lớp xoay quanh em, mà mặt em cứ tỉnh bơ như thể ta là cái rốn vũ trụ, nhìn xốn mắt!”
Bà tiếp tục: Gia đình chúng tôi vượt biên theo diện “bán chánh thức” do nhà nước tổ chức. Mỗi đầu người phải đóng đủ 15 “cây” vàng. Gia đình gồm 10 người đúng ra phải đóng 150 cây nhưng đứa gái út lúc đó mới có 10 tuổi (giờ đây đã là bác sĩ sản khoa nổi tiếng ở thành phố này) nên nhà nước “ nhân đạo” cho đóng nửa suất là 7 cây rưỡi. Vậy là gia đình đóng tổng cộng 145 cây rưỡi để được ra khơi, còn có thoát được hay không thì không ai chịu trách nhiệm. Con tàu có sức chứa 180 người nhưng người ta đã thu vàng và cho lên tàu đến 240!” “Bước đầu mới đến Mỹ cũng như biết bao thuyền nhân khác, chúng tôi phải đối mặt với vô vàn khó khăn và làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh, ổn định đời sống và tiếp tục cho con ăn học thì không phải là dễ dàng gì, nhưng cũng không phải là khó lắm nếu mình có quyết tâm. Ông thì sang một cửa hàng bán sandwich và thức ăn nhanh (fast food ) học chế biến thức ăn và tự điều hành cửa hàng, còn tôi thì đi làm trong hãng đóng gói đồ nữ trang,
Nhưng, định mệnh vẫn còn muốn trêu ngươi tôi. Cơn bệnh ung thư ngực quái ác đã tìm đến với tôi, như thêm một đòn giáng chí mạng vào cuộc đời bất hạnh. Tiền bạc không có. Bảo hiểm sức khỏe không có. Người thân không có. Luật lệ, kiến thức của xứ người tôi cũng không có. Sẽ như thế nào, những ngày trước mắt của ba mẹ con tôi?
Nói đến những chuyện lừa gạt, hẳn mọi người cũng đã biết qua, từ tin tức báo chí, trên đài truyền hình, và rất nhiều chuyện phỉnh gạt thường xuyên xảy ra được truyền miệng từ người này qua người khác đã lâu rồi. Trong thời gian dịch bệnh, cấm cửa, lạm phát, kinh tế khó khăn, nên đã sinh ra nhiều chuyện lường gạt đảo điên không ai lường trước được. Con người nghĩ ra đủ cách để mà lường gạt nhau. Cùng lúc, đã vậy lại còn nhiều điều không may đã ập đến, không trở tay kịp, khiến cho cuộc đời đang lo toan dịch bệnh lại thêm lo lắng, vừa tình hình dịch bệnh, lại thêm thế thái nhân tình, nhân cơ hội, lợi dụng tình thế mà gia tăng, đã làm cho tinh thần mọi người càng thêm căng thẳng gấp bội.
Sang Mỹ, Mị thấy các chùa chiền, Thiền viện như những trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Mỗi cuối tuần các đồng hương có thể tụ về chùa để tu tập, để trò chuyện bằng tiếng Việt, để chia sẻ, để cảm nhận được không khí cộng đồng Việt. Ngày Tết cổ truyền, bà con đồng hương Phật tử xa quê lại có dịp vãn cảnh chùa với những trang trí quen thuộc ngày Tết, có hoa mai, hoa đào. Nhiều chùa chiền và thiền viện còn công phu trang trí cảnh sắc làng quê Việt Nam, để những người con xa xứ tìm chút hương vị quê hương, giúp cho Phật tử thuần thành hay “Phật tử ngang hông” như Mị cảm nhận được thiện ý chan hòa, hoan hỷ. Mái chùa như là nơi chở che hồn Việt. Dù đi chùa để tu học Phật pháp, hay để nương tựa tâm hồn trong những ngày đau khổ chông chênh, hay chỉ đơn giản là ham vui và bớt sân si như Mị thì Mị tin rằng mỗi người khi trở về đều đem theo mình chút niềm vui an lạc trong giai đoạn nhiều bất ổn trên cả thế giới như hiện nay. Mị thấy mình được sống trong môi trường an toàn và tự do...
Nhạc sĩ Cung Tiến