Hôm nay,  

Chiếc Áo Dài Cưới

06/10/202223:19:00(Xem: 3045)

7-10-2022-_20-pages-AB-A1-FULL-COLOR-3
Tác giả Võ Phú nhận giải Danh Dự VVNM năm 2019 (hình đầu tiên từ phía trái).


Tác giả Võ Phú dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục viết lại từ 2016 và nhận giải Danh Dự Viết về nước Mỹ từ 2019. Sau đây, thêm một bài viết mới.

*
 
Jen đưa tay lên vuốt nhẹ chiếc áo dài trước khi trao nó lại cho Annie, đứa con gái riêng của nàng.  Chiếc áo màu đỏ được dệt bằng vải gấm được điểm tô vài cánh lá trúc màu vàng kim lấp lánh.  Chiếc áo mà nàng nhờ người bạn mua giùm khi nàng còn ở trường đại học.  Nàng dự định mặc chiếc áo này trong ngày cưới với Don.  Nàng quen Don khi cả hai còn học chung trường Virginia Commonwealth University.  Don học về kỹ sư điện tử, còn nàng học về hóa sinh.  Don đang hoàn tất chương trình kỹ sư và đang thực tập ở một công ty gần nhà.  Còn nàng chỉ mới vào năm thứ hai.  Don là người gốc Mỹ gốc Việt.  Tên tiếng Việt của anh là Trần Nguyên Đức.  Nhưng sau khi thi vào quốc tịch Mỹ, chàng đổi tên Đức thành Don cho người bản xứ dễ gọi.  Jen quen Don sau một buổi dạ vũ của Hội Sinh Viên Việt Nam tại trường qua sự giới thiệu của một người bạn, An.  An, cô bạn chung phòng ký túc xá với nàng khi cả hai cùng học năm đầu.  Một sự tình cờ, ngẫu nhiên, hay do duyên số mà trường đã sắp xếp cho nàng ở chung với một cô sinh viên nhỏ con có mái tóc dài người Á Đông.  Chắc có lẽ giữa nàng và An có vài điều gì đó hợp nhau, nên mới chia sẻ cùng nhau căn phòng ký túc xá chật hẹp ở năm đầu đại.  Và thật vậy, sau một năm học ở chung, cả hai càng thân nhau.  Nàng giúp An cách phát âm tiếng Anh theo đúng giọng của người bản.  Còn An tập cho nàng ăn những món ăn của người Việt.  Những món như Phở, Bún Bò Huế, nước mắm, bánh hỏi heo quay…  An cũng cho nàng ăn thử trứng vịt lộn, mắm nêm, và cả sầu riêng, những món có mùi khá nặng đối với người bản xứ như Jen.  Vào những dịp rảnh rỗi cuối tuần, không bận học bài thi, nàng thích cùng bạn lái xe đến khu thương mại Eden thăm nhà và để mua thức ăn của người Việt đem về trường.

Khi hội sinh viên tổ chức đêm văn nghệ Tết, với sự rủ reng của An, nàng cũng tham dự trong một tiết mục múa nón.  Nàng trong chiếc áo dài trắng, mái tóc vàng óng ả, nửa tây nửa ta, trông ngồ ngộ và rất dễ thương.  Sau lần trình diễn đó, nàng đâm ra mê chiếc áo dài của người Việt.  Nàng nói chiếc áo dài của người Việt nhìn mềm mại, trang nhã, tôn vinh vóc dáng của người thiếu nữ. Nghe Jen khen chiếc áo dài của người Việt mình, An chọc bạn rằng sẽ tìm cho Jen một người chồng Việt để nàng được mặc áo dài cho thoải thích.  Cứ tưởng đâu nhỏ bạn người Việt nói chơi ai dè, bạn làm thiệt và An đã giới thiệu Don với Jen. 

Hôm đó, sau buổi tiệc dạ vũ đêm văn nghệ tại trường, khi mọi người ra về hết, Don ở lại giúp các bạn sinh viên dọn dẹp.  Don là cựu hội trưởng hội sinh viên, nên chàng quen với rất nhiều sinh viên người Việt.  Thường những dịp văn nghệ sinh viên chàng đều tham gia, như mấy tháng vừa rồi chàng bận làm luận án và tìm nơi thực tập, nên Don ít có dịp sinh hoạt với hội sinh viên.  Những buổi tập dợt có Jen vừa qua chàng đều vắng mặt, nên không biết sự hiện diện của Jen cho đến đêm văn nghệ. Đang thu dọn bãi chiến trường, thì An nắm tay Jen đến giới thiệu cùng Don:

- Chào anh Don...  Đây là bạn của em, tên Jennifer.  Và đây là Don.  Don Tran.  Anh ấy cựu hội trưởng hội sinh viên Việt Nam tại trường.  Anh Don là anh trai của An đó...

Jen đưa tay ra bắt lấy tay Don và nói:

- Hi, Don.  Jen. Jen McKenna.  Rất hân hạnh được làm quen.

Don nhìn Jen, gật đầu chào và khen:

- Hồi nãy Jen trình diễn tiết mục múa nón đẹp lắm.  Rất hân hạnh được làm quen với Jen.

Jen quay qua An, hỏi:

- Anh ấy là anh của bạn thật à?

An cười rồi trả lời bạn:

- Không, không phải anh ruột, nhưng người Việt chúng tôi cứ ai lớn thì gọi bằng anh, như một sự lễ phép.

- Ồ... Vậy chào... Anh Don.

- Chào... Em, Jen...

Cả ba cùng cười...

Sau khi quét dọn và sắp xếp lại bàn ghế ở hội trường xong, cả nhóm trong ban tổ chức đêm văn nghệ và dạ vũ với gần hai mươi người rủ nhau đi ăn khuya để chúc mừng cho buổi văn nghệ và dạ vũ thành công.  Kể từ đó hai người quen nhau.

Mấy tháng sau, Don tốt nghiệp đại học và làm việc cho hãng Philip Morris, cách trường đại học chừng nửa giờ đồng hồ .  Mỗi ngày sau khi đi làm về, chàng đều ghé lại chung cư của nàng để đón Jen đi ăn tối.  Thỉnh thoảng, chàng cũng ở lại chung cư của nàng và được nàng đãi những món ăn do nàng nấu... Tình yêu của hai người ngọt ngào và tươi mát như cơn mưa đầu mùa xuân.  Cả hai dự định sẽ làm đám cưới sau khi Jen tốt nghiệp đại học, nhưng rồi biến cố ngày 11 tháng 9 đã thay đổi cuộc đời của nàng. 

Hôm đó nàng đang ngồi trong giảng trường, nghe giáo sư giảng bài về một môn học, thì mới hay tin quân khủng bố đã tấn công hai tòa trung tâm thương mại thế giới Hoa Kỳ.  Ông giáo sư già, vội mở Tivi qua màn hình rộng để cả lớp cùng coi tin tức.  Khi thấy cảnh chiếc phi cơ đâm đầu vào tòa cao ốc, cả lớp ai cũng há mồm, che mắt kêu Trời, gọi Chúa....

Buổi sáng hôm đó, nhà trường đều cho tất cả sinh viên nghỉ học...

Biến cố ngày 11 tháng 9, Don lúc đó chỉ mới hai mươi bảy tuổi, cũng chỉ vừa mới ra trường và đi làm được một năm.  Chàng bỏ việc làm và xin phép gia đình ghi danh vào quân đội để bảo vệ cho quê hương thứ hai của mình. Chàng nói với Jen rằng, chàng phải đi. Chàng đi lính ngoài mục đích bảo vệ cho sự bình yên của đất nước này ra, chàng còn muốn đền ơn đất nước đã cưu mang gia đình chàng.  Mặc dầu Jen và gia đình không muốn để chàng đi, nhưng nàng vẫn ủng hộ lý tưởng của chàng.  Jen nói với Don rằng nàng sẽ để cho chàng đi với điều kiện là phải cưới nàng trước khi đi tòng quân.  Don nghe xong, chàng cự tuyệt và không đồng ý với nàng.  Chàng sợ nếu có mệnh hệ gì thì nàng sẽ trở thành góa bụa.  Vả lại thời gian quá cấp bách, nên chàng không thể làm đám cưới với nàng trong lúc này. Mặc cho Don giải thích đủ điều, nhưng Jen vẫn quyết định làm đám cưới với chàng.  Sau cùng, cả hai quyết định sẽ dời lại việc đám cưới sau khi Jen ra trường, nhưng cả hai cùng đăng ký kết hôn tại tòa thị chính với sự có mặt của An, và cả bố mẹ của Don.

Rời khỏi tòa thị chính thành phố, cả hai chính thức thành vợ chồng.  Jen dọn quần áo, sách vỡ về căn nhà trọ của Don chung sống.  Dọn vào ở chung cùng nhau hơn một tháng thì chàng từ giã nàng để đi đến A Phú Hãn.  Cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và A Phú Hãn là một cuộc chiến dài nhất lịch sử nước Mỹ và rất nhiều binh sĩ hy sinh.

Một ngày trung tuần tháng mười hai, cuộc chiến Tora Bora giữa Hoa Kỳ và phiến quân Talaban và Al-Qaeda tại những dãy núi Tuyết vùng phía đông của A Phú Hãn đã cướp đi sinh mạng của Don.  Khi hay tin Don hy sinh vì tổ quốc, cũng là lúc nàng biết mình có mang.  Cuộc đời thật trớ trêu, vui, buồn đều ập xuống cùng một lúc.  Một cô sinh viên chỉ ngoài hai mươi mà phải gánh chịu những tổn thương trong tâm hồn như nàng.  Nhiều lúc, ở nhà một mình, nàng muốn kết thúc cuộc sống nhiều đau thương này.  Nhưng, nghĩ đến con, đến mầm sống của Don một ngày một lớn trong bụng của mình, nàng đành gạt nước mặt, bỏ qua buồn tủi mà tiếp tục hướng tới.  Nàng chú tâm vào sách vỡ, học hành, để tìm quên đi những nỗi buồn mất chồng. 

Người ta thường nói thời gian là liều thuốc tốt nhất để xoa dịu những vết thương lòng. Sau khi sinh con và ra trường với tấm bằng dược sĩ, nàng làm việc cho hãng bán thuốc CVS.  Và nàng cũng tìm được hạnh phúc bên người chồng bản xứ.  Cuộc sống gia đình của nàng êm đềm trôi qua.

Thoáng đó đã được mười tám năm.  Giờ đây cầm chiếc áo dài trên tay, khuôn mặt của Don chợt hiện ra trong tâm tưởng của nàng.  Quá khứ tưởng như xếp lại theo chiếc áo dài cất kín vào ngăn tủ, nhưng không những hình ảnh của Don vẫn còn đầy ấp trong trí nhớ của nàng.  Jen nâng niu chiếc áo dài, im lặng.  Đôi mắt nàng nhìn xa xăm.  Chợt nàng giật mình khi nghe tiếng con gái gọi:

- Mẹ ơi... Mẹ có sao không?

- Ờ... Ồ... Mẹ... Mẹ không có gì... À, hôm nay sinh nhật mười tám của con và con cũng chuẩn bị vào đại học, mẹ có món quà này tặng cho con. 

- Cái gì vậy mẹ?

- Đây này.  Con xem...

Annie nhận chiếc áo dài từ tay mẹ và mở nó ra coi.  Cô nhìn mẹ, chờ đợi.  Jen nhìn con trìu mến rồi giải thích cho con hiểu kỷ vật mà nàng đang trao tặng con.  Annie ôm chầm lấy mẹ.  Hai mẹ con cùng khóc.  Những giọt nước mắt hạnh phúc.  Nàng nói với con:

- Mẹ hy vọng một ngày nào đó, khi con lấy chồng, con có thể mặc chiếc áo này thay mẹ.  Mẹ biết hình ảnh ba ruột của con rất mơ hồ trong tâm trí của con.  Nhưng mẹ hy vọng rằng, con hãy nhớ về nguồn cội của mình.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 495,744
Ngồi một mình trong căn phòng vắng, mọi người đang vui chơi ở đâu đó cuối tuần để lại cho tôi một cơ hội, một dịp mà tôi thích lắm, thích nhất từ ngày đặt chân đến đất Mỹ, đó là một không gian riêng tư cho mình Những ngày bơ vơ lạc loài bước chân ngỡ ngàng đến Mỹ. Ngày đó ai cũng như nhau là cùng sống chen chút nhau thật đông trong những căn nhà mướn, căn phòng quá tải… nhưng thôi điều đó không thật sự làm buồn phiền tôi, nhưng tôi chỉ ao ước cho tôi một khoảng không gian, thời gian yên tĩnh cho tôi quá khó , không hề có...
Vắt qua dòng sông có đến mười mấy cây cầu, những cây cầu bằng sắt thép, kiểu cách như cầu Bình Lợi, Bình Triệu vậy… Những cây cầu có tuổi đời năm mươi năm, một trăm năm nhưng vẫn tiếp tục trách vụ kết nối đôi bờ. Có những cây cầu quay, mở ra để cho tàu thuyền qua lại, ngày nay nó đã không còn được sử dụng nữa. Nó được kéo cao lên và giữ nguyên như thế để làm di tích lịch sử. Những cây cầu mở ngày xưa giờ trở thành nhân chứng cho một thời vàng son chưa xa lắm.
Ba cứ khăng khăng là không có tay trồng trọt. Tôi không tin, phần thì ăn xà lách hoài cũng ngán, chúng tôi thèm những thứ rau có mùi, mang hương vị quê nhà. Thử tưởng tượng ăn thịt gà trộn muối tiêu mà không có rau răm, ăn bánh tráng cuốn thịt ba rọi cũng chỉ với xà lách. Hành ngò thì cũng có nhưng khá đắt, kể cả những thứ rau mùi cũng có bán ở chợ Việt Nam, chợ Thái Lan nhưng rất mắc và quan trọng là không có ai chở mình đi chợ. Tôi lải nhải nhắc Ba: Không có việc gì khó, chỉ sợ mình… không trồng!
Ông Chương thức dậy thật sớm sau một đêm khó ngủ trằn trọc, dù ông đã nghe mấy bài phật pháp do thầy Pháp Hòa giảng để dỗ giấc ngủ. Bên ngoài cây cỏ còn ngái ngủ dưới lớp sương dày đặc, chưa thấy mặt trời lên. Ông rón rén đi pha cà phê thật nhẹ nhàng, cố gắng không gây tiếng động làm mất giấc ngủ cả nhà...Tách cà phê thơm phức nóng hổi gây cho ông cảm giác dễ chịu. Ông lặng yên như đang lật trang đời từ ngày qua định cư nước Mỹ …Nhớ ngày miền Nam bị mất, ông đi tù 5 năm trở về, lúc ấy ông chỉ mới ngoài 30 tuổi, người yêu đã sang ngang, cùng lúc mất tất cả. Ông chán chường cuộc sống chẳng thiết gì nữa, nhưng mấy năm sau duyên nợ đến cho ông gặp được cô giáo dạy mầm non tên Dung, không chê ông nghèo tối ngày đi “dọc đường gió bụi”. Hai người nên duyên và hơn năm sau cháu Việt ra đời, đến cháu Nga, cháu Nguyệt, và con trai út là cháu Quân. Gia đình ông ở ké nhà mẹ vợ, ông làm đủ thứ nghề ai kêu gì chạy đó, sau có được chiếc xe đạp thồ đón khách.
Sáng thứ Bảy cuối tháng 5 trời trở lạnh với mây mù và vài thoáng mưa phùn. Tự nhiên tôi chạnh lòng nhớ đến đàn chị Nguyễn Tinh Châu. Mai là ngày giỗ 3 năm của Chị. Thời gian qua thật nhanh. Sự ra đi của Chị quả là một mất mát lớn cho Hội YKH chúng ta, không những vì Chị là một trong những hội viên kỳ cựu, mà vì những hoạt động xã hội đắc lực của chị trong kêu gọi và thành lập quỹ cứu trợ nạn nhân cho nhiều thiên tai tại Mỹ, Nhật (Tsunami, 2011), Phi Luật Tân (Typhon Haiyan, 2013) và ngay cả Việt Nam (Bão Xangsane, 2006)…Và nhất là quỹ tương trợ hàng năm nhằm giúp đỡ các Thương Phế Binh sống cùng cực tại quê nhà. Con số đóng góp luân chuyển từ 8 ngàn đô cho đến 10 ngàn đô nói lên được sự nhiệt tình của Chị và của anh chị em chúng ta cho một mục đích chung, đúng, xứng đáng, nhân nghĩa và truyền thống.
Hồi đó, trong những kỹ sư mới ra trường về làm cho Bưu Điện, anh là một người tôi không ưa nhất, và có lẽ tôi cũng là người anh ghét nhất. Anh đẹp trai, con nhà giàu, mỗi cái tội mặt kênh kênh và cái giọng Huế. Cái giọng nói nặng trịch, oang oang sao mà khó ưa. Không những tôi mà cả mấy đứa bạn cùng cơ quan mỗi khi thấy anh đi ngang là che miệng cười nhái: đi mô rứa tề. Tôi ghét nhất là có lần anh lái xế hộp chở mấy ông bạn đi uống cafe, thấy tôi đi ngang mấy người bạn bảo dừng xe rủ tôi đi cùng, anh nói kệ nó, cái con nhỏ phách lối. Sau này thân nhau rồi, có lần tôi hỏi tại sao anh làm vậy, anh trả lời, “Lúc nào cũng thấy mấy thằng bạn cùng lớp xoay quanh em, mà mặt em cứ tỉnh bơ như thể ta là cái rốn vũ trụ, nhìn xốn mắt!”
Bà tiếp tục: Gia đình chúng tôi vượt biên theo diện “bán chánh thức” do nhà nước tổ chức. Mỗi đầu người phải đóng đủ 15 “cây” vàng. Gia đình gồm 10 người đúng ra phải đóng 150 cây nhưng đứa gái út lúc đó mới có 10 tuổi (giờ đây đã là bác sĩ sản khoa nổi tiếng ở thành phố này) nên nhà nước “ nhân đạo” cho đóng nửa suất là 7 cây rưỡi. Vậy là gia đình đóng tổng cộng 145 cây rưỡi để được ra khơi, còn có thoát được hay không thì không ai chịu trách nhiệm. Con tàu có sức chứa 180 người nhưng người ta đã thu vàng và cho lên tàu đến 240!” “Bước đầu mới đến Mỹ cũng như biết bao thuyền nhân khác, chúng tôi phải đối mặt với vô vàn khó khăn và làm nhiều việc khác nhau để mưu sinh, ổn định đời sống và tiếp tục cho con ăn học thì không phải là dễ dàng gì, nhưng cũng không phải là khó lắm nếu mình có quyết tâm. Ông thì sang một cửa hàng bán sandwich và thức ăn nhanh (fast food ) học chế biến thức ăn và tự điều hành cửa hàng, còn tôi thì đi làm trong hãng đóng gói đồ nữ trang,
Nhưng, định mệnh vẫn còn muốn trêu ngươi tôi. Cơn bệnh ung thư ngực quái ác đã tìm đến với tôi, như thêm một đòn giáng chí mạng vào cuộc đời bất hạnh. Tiền bạc không có. Bảo hiểm sức khỏe không có. Người thân không có. Luật lệ, kiến thức của xứ người tôi cũng không có. Sẽ như thế nào, những ngày trước mắt của ba mẹ con tôi?
Nói đến những chuyện lừa gạt, hẳn mọi người cũng đã biết qua, từ tin tức báo chí, trên đài truyền hình, và rất nhiều chuyện phỉnh gạt thường xuyên xảy ra được truyền miệng từ người này qua người khác đã lâu rồi. Trong thời gian dịch bệnh, cấm cửa, lạm phát, kinh tế khó khăn, nên đã sinh ra nhiều chuyện lường gạt đảo điên không ai lường trước được. Con người nghĩ ra đủ cách để mà lường gạt nhau. Cùng lúc, đã vậy lại còn nhiều điều không may đã ập đến, không trở tay kịp, khiến cho cuộc đời đang lo toan dịch bệnh lại thêm lo lắng, vừa tình hình dịch bệnh, lại thêm thế thái nhân tình, nhân cơ hội, lợi dụng tình thế mà gia tăng, đã làm cho tinh thần mọi người càng thêm căng thẳng gấp bội.
Sang Mỹ, Mị thấy các chùa chiền, Thiền viện như những trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt. Mỗi cuối tuần các đồng hương có thể tụ về chùa để tu tập, để trò chuyện bằng tiếng Việt, để chia sẻ, để cảm nhận được không khí cộng đồng Việt. Ngày Tết cổ truyền, bà con đồng hương Phật tử xa quê lại có dịp vãn cảnh chùa với những trang trí quen thuộc ngày Tết, có hoa mai, hoa đào. Nhiều chùa chiền và thiền viện còn công phu trang trí cảnh sắc làng quê Việt Nam, để những người con xa xứ tìm chút hương vị quê hương, giúp cho Phật tử thuần thành hay “Phật tử ngang hông” như Mị cảm nhận được thiện ý chan hòa, hoan hỷ. Mái chùa như là nơi chở che hồn Việt. Dù đi chùa để tu học Phật pháp, hay để nương tựa tâm hồn trong những ngày đau khổ chông chênh, hay chỉ đơn giản là ham vui và bớt sân si như Mị thì Mị tin rằng mỗi người khi trở về đều đem theo mình chút niềm vui an lạc trong giai đoạn nhiều bất ổn trên cả thế giới như hiện nay. Mị thấy mình được sống trong môi trường an toàn và tự do...
Nhạc sĩ Cung Tiến