Hôm nay,  

Joe và những con bồ câu

16/09/202200:00:00(Xem: 4305)

                             

Duy Nhan
Hình tác giả Duy Nhân cung cấp.
   

Tác giả Duy Nhân tên thật Nguyễn Đức Đạo 75 tuổi hiện ở tại Chicago, tiểu bang Illinois.Đã đóng góp nhiều bài Viêt Về Nước Mỹ và được lãnh giải nhiều lần từ năm 2001. Sau đây là bài mới nhất của tác giả
 
*
  
 Mặc dầu không phải là nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, tôi cũng thực hiện được nhiều bức ảnh đẹp. Nước Mỹ rộng bao la nên không thiếu những cảnh đẹp, do bàn tay con người dựng lên cũng có, do tạo hóa sáng tạo cũng có: Mùa Xuân với hoa anh đào trên dòng sông Potomac ở Washington DC, mùa Hè ở Grand Canyon, Arizona, mùa Thu ở San Juans, mùa Đông thì có rừng thông, núi tuyết ở Yellow Stone, tiểu bang Wyoming … Tôi lại nghĩ, sẽ đẹp biết bao nếu  những bức ảnh của tôi có mang ý nghĩa nhân bản một cách tự nhiên, không dàn dựng, không hư cấu, không cần photoshop can thiệp.Tôi cho đó là những bức ảnh có hồn, khác với những bức ảnh đẹp về nghệ thuật mà vô tri, vô giác! Trong suốt thời gian sống ở Mỹ, tôi vẫn để tâm theo đuổi mục tiêu đó.

Hôm đó là ngày ngày 4 tháng 7, ngày độc lập Hoa Kỳ. Vào khoảng 3 giờ trưa, tôi mang máy ảnh ra trạm Wilson định đón xe lửa đi down town chụp cảnh đốt pháo bông vào tối hôm đó. Tình cờ tôi chụp được một loạt ảnh của một bà Mỹ da đen, đang quằn quại trên đường rây. Biết bao nhiêu người trong đó có Police la ó, ra dấu hiệu, tìm mọi cách ngăn chận chiếc xe lửa đang tiến tới Nhưng… đã quá trễ! Hình ảnh kinh hoàng đó đã khiến tôi bỏ cầm máy trong một thời gian dài, cùng với những tấm hình chụp được, không biết để làm gì!

Tôi lặng lẽ nhìn thời gian trôi qua từng ngày với dòng xe qua lại liên tục trên đường Western, con đường chính nối liền Nam- Bắc thành phố Chicago, một thành phố kỹ nghệ nổi tiếng nước Mỹ.  Vào một ngày giá rét của tháng 12, ai cũng ngại đi ra ngoài vì cần phải xuống phố Argyle, nơi có nhiều chợ Việt Nam để mua thức ăn nên tôi đã lái xe đi. Khi đến số 4816 N đường Western, gần Lawrence tôi bắt gặp một hình ảnh lạ: Một ông già người Mỹ, da trắng, tóc bạc gần hết mái đầu, gương mặt xương xương, với những nếp nhăn sâu hoắm, là dấu vết của thời gian, của nắng, mưa, sương, tuyết.. Ông mặc áo xanh, bỏ vào quần jean cũng xanh nhưng đã bạc màu. Ông ngồi yên bất động trên cái họng cứu hỏa (fire hydrant ) màu đỏ, mặt hướng ra đường. Điều đặc biệt là trên đầu, hai vai, xuống tới bắp đùi ông có những con chim bồ câu trên đó. Dưới chân ông, trên vỉa hè cũng có vô số bồ câu đi tới đi lui.Thấy cảnh lạ, tôi dừng hẳn xe lại, quan sát.Ông già im lặng như pho tượng, chỉ có đôi môi là mấp máy! Hình như ông đang đọc kinh hay cầu nguyện điều gì. Những con bồ câu cũng nằm yên tại chỗ.Thỉnh thoảng ông cúi xuống hôn con bên vai phải, rồi con bên vai trái.Tôi thấy được một sự cảm thông tuyệt đối giữa con người và con vật! Trông phút chốc, tôi liên tưởng đến hình ảnh của Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới gốc bồ đề để tìm chân lý, cứu độ chúng sinh. Có điều khác biệt là trước đây Đức Phật tham thiền nhập định ở một nơi hoàn toàn yên tĩnh, còn bây giờ, người này ngồi  ngay giữa đường phố, ôn ào náo nhiệt, người qua kẻ lại không lúc nào ngơi. Tuy chưa biết ý nghĩa của sự việc là gì, tôi cũng nhận thức được đây là một hình ảnh đẹp, đầy tính nhân bản mà tôi có ý săn lùng tự bấy lâu nay. Hy vọng một hình ảnh đẹp là sự thể hiện một bản chất tốt đẹp. Nghĩ thế, tôi quyết định không đi chợ nữa mà quay xe về, lấy máy ảnh…Khi tôi trở lại thì ông già vẫn ngồi đó, những con chim bồ câu vẫn ở vị trí cũ. Tôi muốn chụp cận ảnh, kiểu chân dung nhưng vì ông quay mặt ra đường, xe thì chạy vun vút, tôi không có khoảng cách, không có không gian nên rất khó xử lý. Tôi đành qua phía bên kia đường, nơi có tượng  Abraham Lincoln, sử dụng ống kính 300 ly để chụp qua, và tôi phải chờ từng phút từng giây, khi nào ngơi xe mới bấm máy. Xong, tôi trở lại để chụp ông và lũ bồ câu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong khoảng thời gian hơn tiếng đồng hồ tôi đã chụp trên năm mươi bức ảnh. Tạm hài lòng với việc đã làm, tôi mời ông già vào quán Mac Donald gần đó uống nước. Tôi muốn tìm hiểu con người rất lạ lùng này, nhất là về những gì tôi đã trông thấy. Joe có tên đầy đủ là Joseph Zeman.

Hôm nay là sinh nhật lần thứ 77 của ông.Trước đây ông có quầy bán báo ở vệ đường nên có cơ hội gần gũi với đám bồ câu. Ông ngồi ở đó đã hơn mười một năm, trước đây ở góc đường LaSalle và Division là bốn mươi bảy năm. Như vậy ông đã làm bạn với chim muông để thực hành lý tưởng của mình được năm mươi tám năm, kể từ năm19 tuổi! Báo chí Mỹ thường gọi ông bằng cái tên thân thương là “The Pigeon Man of Lincoln Square” hoặc vắn tắt là “The Pigeon Man”. Lúc nhỏ ông bị chứng động kinh và bị mẹ bạc đãi, bị hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần. Vì không muốn khơi lại niềm đau dĩ vãng, cũng không muốn đi quá sâu vào đời tư của ông nên tôi không hỏi gì thêm. Hiện tại ông sống một mình trong một phòng của chung cư số 2134 W.Arthur, Chicago. Mỗi ngày hai lượt ông đi bộ trên một tiếng đồng hồ từ nhà đến đây.Ông là người thiếu tình thương và có kinh nghiệm rất xót xa, cay đắng về tình người. Bài học mà ông học được từ cuộc đời: Để tránh lỗi lầm, ông giữ im lặng không nói gì cả, im lặng mà tin tưởng và lương thiện.Với cung cách đó,ông đã đến với những con bồ câu, cũng như chúng đã đến với ông và đã đáp lại ông một cách tích cực, không bằng lời. Ông biết ơn về tình bạn trong sáng của chúng hơn bất cứ một con người nào khác Ông muốn yêu thương, muốn được yêu thương và rao giảng tình thương cho con người qua những con bồ câu, tự nó đã là biểu tượng của hòa bình! Ngoài ra, ông còn nói : “It’s not any hard to be nice to people than it is to be bad to people ”, con người cư xử tốt với nhau không khó chút nào, chỉ cư xử xấu mới khó.Về ước vọng tương lai thì ông chỉ muốn con người nên hòa thuận, đoàn kết với nhau, cư xử với nhau cho đứng đắn, lịch sự và tình người: My hope for the future is that people will get along and treat each other with decency”. Điều ray rức nhất trong ông bây giờ là con người ta cư xử quá tệ với nhau. Trong khi nói chuyện, Joe thường hay dùng từ decency. Gặp ai ông cũng trao cho tấm danh thiếp, bên trái có hình ông và mấy con bồ câu, ở giữa có ghi một câu thể hiện triết lý sống của ông:  “I’m advertising to the public how easy it is to be good without an attitude; It’s just easy to show decency as it is to hate today”.Ông nói đây là thông điệp ông muốn gửi đến mọi người.

Khi được hỏi ai là người thân yêu nhất của ông bây giờ, ông nói đó chính là thánh St Francis of Assissi! Joe đang cố gắng sống và hành động giống như vị thánh này. Francis là một vị thánh Thiên chúa giáo La Mã, sinh năm 1181, mất năm 1226 ở Ý Đại Lợi. Ông có lòng yêu mến đặc biệt đối với thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, không khí, nước, lửa, hoa. Ông cổ vũ cho Hòa Binh, Công Lý, nhằm chấm dứt bạo loạn, chiến tranh, nghèo khổ và áp bức.Ông vinh danh sự sáng tạo hoàn hảo của Chúa đối với muôn loài, kể cả chim muông và thú vật.Ông có những bài rao giảng với chim muông còn truyền tụng tới bây giờ. Lễ chúc phúc cho thú vật hàng năm, 4 tháng 10 trên toàn nước Mỹ ngày nay đã khơi nguồn từ tinh thần của vị thánh bảo trợ cho muôn thú, thánh Francis of Assissi.Ngày nay vẫn tồn tại bức tượng của thánh Fransis tại Rivo Torto, gần Assisi bên Ý, với hai cánh tay dang ra đưa lên trời, nối liền với những cánh chim bồ câu trên khoảng trời bao la, cao rộng. Nói xong, Joe lấy từ trong túi xách bên cạnh, hình như tất cả tài sản của ông đều nằm gọn trong cái túi xách nhỏ bằng vải màu xanh này: thức ăn cho chim, sách báo, một tấm postcard có hình thánh Francis để tặng tôi. Tôi đọc được hàng chữ, là một lời cầu nguyện:  Lord, make me an instrument of your peace. Where there is hatred, let me sow love. Hỡi thượng đế! Hãy biến con thành công cụ của hòa bình. Nơi nào có sự oán ghét, con sẽ gieo mầm yêu thương!


Trả lời thắc mắc của tôi là sao không thấy ông cho lũ bồ câu ăn gì cả, Joe nói chánh quyền Chicago đã có lệnh cấm không cho thú hoang ăn ở đường phố. Mỗi ngày hai lượt ông ra ngồi đó với chúng. Ông chỉ lén cho chúng ăn lúc mặt trời lặn, khi ông ra về. Police thì ai cũng biết ông, có người hiểu được việc làm của ông thì thông cảm, cũng có người hễ thấy ông thì đuổi đi, mặc dầu ông chưa có cho chúng một hạt gạo, một hạt bắp hay một mẩu bánh mì nào. Chỉ tội nghiệp cho lũ bồ câu. Ông nói mà rươm rướm nước mắt. Khi nghe tôi tỏ ý muốn được làm bạn với ông thì ông nói rất vui vì có người hiểu được ông. Tôi nói, hơn năm chục năm nay biết bao người hiểu ông. Tôi rất tiếc đã đến với ông rất muộn màng. Ông nói muộn còn hơn không.

Khi chúng tôi trở lại, Joe chỉ tay về phía bên kia đường và trên các building xung quanh nơi có những con bồ câu và nói: “chúng đang chờ tôi đó”.  Joe ngồi vào cái fire hydrant thì lũ bồ câu sà xuống, tranh nhau bám lên người ông từ đầu tới chân, những con còn lại đành ở vĩa hè. Từ trong miệng, ông phát ra những âm thanh giống như những người bạn nhỏ “ Cục! Cục”. Tùy theo sắc lông bồ câu, ông gọi tên từng con một: “ Whitey, Brownie ! Sure, Sure… There, There…”. Đối với những con đến trễ, ông tỏ ra vô cùng lo lắng, luôn miệng hỏi: Where you been? Where you been? Rồi ông hôn chúng. Ông gí mũi vào đầu, vào cánh chúng. Ông nhặt từng sợi lông rơi ra trên người chúng, còn chúng thì dùng mỏ mổ mổ lên mặt ông, đồng thời phát ra những tiếng “Rù ! Rù”. Ông cũng đáp lại bằng những âm thanh thật nhỏ mà có lẽ chỉ có ông và lũ bồ câu mới hiểu được.
 
Khi tôi đến cho Joe xem một số ảnh chụp ngày hôm trước thì ông rất mừng. Ông nói trước đây phóng viên tờ Chicago Tribune cũng có chụp ảnh ông nhưng không đẹp bằng những bức ảnh của tôi. Tôi nói, tôi chụp ông với tất cả tấm lòng theo quan điểm nghệ thuật và cung cách của riêng tôi. Ông thích nhất tấm ảnh bán thân, tấm mà tôi cũng thích, có hai con bồ câu ở hai vai, ông hơi nghiêng đầu nhìn lên với ánh mắt thật say đắm, còn con thứ ba đang xòe cánh lấy thế thăng bằng trên bàn tay ông đã đưa lên tới ngực trong tư thế nâng đỡ nó,.hậu cảnh là các cửa kính có in bóng dáng lờ mờ những chiếc xe qua lại vào lúc bấm máy. Joe muốn tôi in cho ông bức ảnh này cở lớn hơn và copy ra nhiều bản để phân phát cho mọi người. Tôi hứa là sẽ thực hiện điều mà ông mong muốn và sẽ mang lại cho ông lần tới, đồng thời để lại cho ông tất cả những bức ảnh mà ông thích. Sau mỗi bức ảnh tôi ghi tên họ, số phone cùng chữ ký để tặng ông. Thời gian ở chơi với Joe không lâu nhưng tôi hiểu được cá tính,ý nghĩa việc làm của ông không bằng lời nói mà bằng sự im lặng hoàn toàn, đúng như chủ trương của ông: “to be good without attitude”. Một sự kiện bất ngờ xảy ra làm tôi xúc động: Không biết từ đâu, một chiếc xe Police chạy tới. Hai viên Police xuống xe, đến chỗ ông ngồi và nói chuyện với ông khoảng chừng năm phút. Không biết họ nói gì nhưng ông lại đứng lên và xách cái túi xanh, bước đi. Tôi hỏi ông đi đâu, ông nói họ đuổi thì mình cứ đi, đi đâu cũng được. Lúc bấy giờ con bồ câu trên đầu và hai con ở hai bên vai ông vẫn nằm yên như không có chuyện gì xảy ra. Lúc ông bước đi nó vẫn giữ yên vị trí trên người ông, còn những con khác thì khi ông đi tới dâu, chúng bay theo tới đó, bay rợp cả một góc phố về hướng Bắc. Hình ảnh này đã được tôi ghi vào máy rất đầy đủ và cẩn thận. Khi ông đến quán Mac Donald, nơi mà tôi và ông có lần uống nước thì ông dừng lại.Thấy cảnh sát vẫn còn canh chừng ông, tôi đề nghị ông lên xe, tôi chở về nhà. Ông nói có người bà con ở gần đây và nhờ tôi đưa ông tới đó, khi nào Police đi ông sẽ trở lại. Nghe ông nói, tôi đồng ý ngay vì có ý muốn qua người bà con này, tôi sẽ hiểu rõ và đầy đủ hơn về gia cảnh, nhất là khoảng thời gian ông còn nhỏ. Tôi nói chuyện với bà Marilyn Donovan, chị họ của Joe khoảng nửa giờ. Bà xác nhận những gì Joe nói là đúng và nói rõ cách thức mà Joe bị mẹ hành hung lúc nhỏ cùng nhiều chi tiết thú vị khác. Bà không quên ghi cho tôi địa chỉ, số phone và nói khi nào rảnh thì tới chơi, nhà tôi và nhà bà cách nhau chỉ vài “block” đường.
 
Mùa Đông ở Chicago năm nay lạnh chưa từng thấy, nhất là vào tháng mười hai. Bão tuyết cứ liên tục kéo đến hết trận này đến trận khác.Thành phố bị bao phủ trong màn tuyết trắng. Người ta gom tuyết lại thành đống như những ngọn núi nhỏ bên vệ đường, trong công viên, xung quanh nhà… Cả thành phố như cái tủ lạnh! Chicago còn có tên là Windy City, thành phố gió. Những hôm có gió lạnh nhiệt độ rớt xuống dưới con số 0. Tôi đã thực hiện tấm ảnh như Joe mơng muốn và đã copy ra nhiều bản. Định hôm nào bớt lạnh và khô ráo tôi sẽ mang đến cho ông. Chắc là mấy hôm rày ông cũng ở nhà như tôi.
 
Vào một ngày thứ ba, khoảng 4 giờ chiều có người gọi điện thoại cho tôi và xưng là Police Chicago. Sau khi xác định tên họ tôi, Police báo cho tôi biết Joe đã qua đời lúc 3 giờ 21 phút, tại bệnh viện St Francis, Evanston! Tin bất ngờ đến với tôi giống như sét đánh! Tôi bàng hoàng và chết lặng đi trong nhiều phút mới trả lời được với Police rằng tôi chỉ là bạn, rằng Joe còn có người bà con tên…. số điện thoại là….. Vậy là trong những ngày giá lạnh tôi ở nhà thì Joe vẫn đến với những con chim câu. Ông đã bị chiếc Chevrolet van đụng phải ở góc đường Devon và Mc Cormick lúc 2 giờ 15 phút ngày thứ ba. Cảnh sát tìm thấy trong túi xách của Joe có danh thiếp của ông và những tấm ảnh mà tôi chụp cho, phía sau có tên và số điện thoại của tôi, là người duy nhất mà Police có thể liên lạc được. Có một sự lý thú, bất ngờ như phép mầu là Joe đã mất đi ở ngay cái bệnh viện mang tên Thánh Francis, vị thánh mà Joe tôn là thần tượng và suốt đời ông cố noi theo. Tuy nhiên, điều làm tôi suy nghĩ và hơi buồn là Joe đã bỏ cả cuộc đời để tư tưởng, cầu nguyện, và thực hành điều cao quý, đó là tình thương cho con người, cho nhân loại, còn đối với riêng mình, ông chỉ muốn một việc rất đơn sơ là một tấm ảnh ưng ý nhưng khi đã có rồi thì ông lại không được nhìn thấy nó!
 
Ngày hôm sau, thứ tư tôi cho bức ảnh đã phóng lớn cỡ 8 x10 vào khung và mang theo một thẻ nhang, tới chỗ mà Joe thường ngồi. Nơi đây đã có ai đó đặt một vòng hoa tựa vào cái họng cứu hỏa, có nhiều cây nến đang cháy, bên cạnh là một gói thuốc đã mở ra, cùng cái giá cắm điếu thuốc đang cháy dở. Trên cái fire hydrant có một con bồ câu ngồi ủ rũ, trên vỉa hè, nhiều con khác cứ đi qua đi lại… Tôi đặt khung ảnh tựa vào vòng hoa, đốt ba cây nhang, ngồi xuống nói với Joe : “Joe ơi! Tôi mang đến cho ông bức ảnh mà ông thích nhất đây…” Nói tới đây thì nước mắt tôi trào ra. Tôi yên lặng, thật lâu, rồi tiếp tục: “Đây là lần sau cùng tôi đến với ông. Mong ông cứ ngủ thật bình yên cùng với thánh Francis trong vòng tay của Chúa…”  Vì quá xúc động, tôi không nói thêm gì được nữa. Nhiều khách bộ hành thấy tôi khóc thì tò mò dừng lại xem chuyện gì đã xảy ra, những người khác thì vẫn cứ bình thản xuôi ngược lo toan công việc của mình. Ngoài kia,dòng xe qua lại vẫn không một phút ngừng nghỉ.
 
Tuyết đã bắt đầu rơi… Và, trong tôi chợt xuất hiện những vần thơ. Tôi lẩm bẩm những lời sau cùng dành cho Joe:
 
Giữa phố phường đông đảo
Người qua lại hững hờ
Tiếng bồ câu ảo não :
Người ở đâu bây giờ?     
          
Duy Nhân
 

Ý kiến bạn đọc
11/10/202303:42:13
Khách
Chú Duy Nhân viết thật hay, thông điệp thật ý nghĩa... Đoạn cuối làm cháu không cầm được nước mắt. Nếu có duyên được gặp chú vào tháng 11, cháu xin một bức hình của ông Joe, và cả danh thiếp của ông...
22/09/202221:05:50
Khách
đọc đến đoạn cuối nước mắt tôi âm thầm rơi... Cám ơn tác giả.
21/09/202215:22:17
Khách
Joe was a good man. May he rest in peace.
Your moving story is one of the most meaningful that I have read in this forum. Thank you.
17/09/202222:05:30
Khách
Cau chuyen that la cam dong, doc ma roi nuoc mat..... (xin loi vi khong biet bo DAU, CAM ON)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 496,419
Nhập ngũ vào Thủ Đức sau biến cố Mậu Thân 1968 khi đang theo học năm thứ hai Cao Học Sử Địa tại Văn Khoa Saigon, anh được chọn vào Không Quân, và có lẽ do bản chất yêu thích văn nghệ với sở trường ca hát và đờn địch, anh vào làm việc trong ban Tâm Lý Chiến của Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa, đi từ cấp bậc Chuẩn Úy cho đến Đại Úy. Đầu năm 1975, anh lấy vợ, một nữ quân nhân phục vụ trong phòng Xã Hội cũng tại sư đoàn 3 Không Quân. Vợ chồng anh ở trong trại sĩ quan của đơn vị cho đến ngày mất nước. Khi anh vào tù, chị trở về quê sống với cha mẹ chị gần Cần Thơ.
Phải nhìn nhận rằng Lão là con người hiền lành, rất hiền lành! Nói theo kiểu người mình hay nói là hiền như cục đất! Lão hiền từ trong nhà ra tới ngoài đường. Chưa bao giờ lão lớn tiếng, hay nói những lời nóng nảy, cộc cằn với bất cứ ai! Cái tâm lão cũng vô cùng là hiền, hiền cả với cây cỏ, với thú vật! Lân la ngoài vườn nhiều khi thấy ớt con hoặc é quế mọc nhiều quá, mụ vợ nhổ quăng bớt. Nếu thấy được lão nhặt chúng đem đi chỗ khác trồng! Mụ kền rền, lão bảo: “Chúng nó cũng muốn sống mà!” Bất cứ con bọ nào bất chợt lọt vào trong nhà là lão túm lấy mở cửa quăng ra ngoài, vừa quăng lão vừa nói: - Đi về nhà mày đi, ở đây lâu là có cơ hội xuống ống cống đấy! Ý lão ám chỉ mụ! Mụ ghét nhất bất cứ con gì chui vào nhà, trông thấy là mụ quăng ngay vào bồn cầu, giật nước mất tích luôn!
Hôm nay trời trong, nắng vàng rực rỡ nhưng lạnh. Hàn thử biểu cho thấy buổi sáng 47độ và trưa được 54 độ F. Vào buổi chiều 16 giờ khí tượng cho biết sẽ có mưa. Từ hôm qua các con đã khuyến khích tôi đi xem hoa đào vì sợ sau cơn mưa, phần lớn hoa sẽ rơi rụng, tơi tả không còn đẹp nữa. Qua video người bạn gửi cho xem thấy hoa đào ở Tidal Basin thủ đô Hoa Thinh Đốn đã nở rộ.
Với Hai Búng thì có nhiều chuyện để nói. Tên trên giấy tờ là Phạm Bình Nhâm, nhưng từ khi vào quân đội, ban bè cùng khóa đặt cho hắn cái tên mới là Búng - Hai Búng. Sở dĩ hắn mang cái biệt danh (nickname) này vì nhà hắn gần chợ Búng mà khi nhắc đến chợ Búng, hắn say sưa nói miết - quên thôi! Hắn tả cảnh, tả tình về quê hương của hắn với những vườn cây ăn trái ở Lái Thiêu, An Sơn, Bình Nhâm (nơi sinh quán của hắn) hấp dẫn đến mức mà người nghe thấy mát rượi với những cây chôm chôm, măng cụt, sầu riêng... ngát hương vườn lài, thơm phức mùi sầu riêng và ngọt lịm mùi lò đường, ruộng mía ven sông …Và bao gìờ kết thúc câu chuyện cũng là lời mời rất chân tình: “Khi nào đi qua Chợ Búng, nhớ ghé nhà tao, tao sẽ đưa tụi mày đi ăn bánh bèo bì Mỹ Liên, hay Ngọc Hương, hai tiệm bánh bèo bì nổi tiếng không những ở chợ Búng mà khắp nước đấy. Rồi về nhà tao, mẹ tao sẽ đãi một bữa cháo vịt – thịt vịt bầu mà chấm nuớc mắm gừng do mẹ tao pha chế thì hết sẩy – Tụi mày sẽ nhớ đời …”
Hồi tôi ở trại tỵ nạn, trầy trật bốn năm trời mới vượt qua cuộc thanh lọc đáng ghét, và khi gặp phái đoàn Mỹ phỏng vấn thì bị từ chối, mặc dù tôi có đầy đủ gia đình ở bển. Còn chồng tôi, cả giòng họ rủ nhau đi vượt biên rất sớm, năm 1977 khi cả miền Nam đang vào cơn tàn tạ dưới bàn tay của “bên thắng cuộc”. Trong khi ở trại Mã Lai chờ phái đoàn Mỹ, thì phái đoàn Canada lơn tơn xuất hiện, gia đình chồng tôi nôn nóng thoát khỏi cuộc sống tù túng ở trại nên nhắm mắt đưa chân qua Canada định cư luôn một lèo. Sau đó, chồng tôi đi học, vào cấp ba rồi Đại Học, quyết chí thực hiện giấc mơ Mỹ Quốc năm xưa, bèn nộp vào trường Đại Học tại New York. Khi nộp đơn thì hào hứng, đến khi được nhận thì bị bà má chồng “bàn ra”, vì sợ tốn kém với số “student loan” quá lớn, chồng tôi cũng bị nản chí, không qua đó học nữa.
Thời gian gần đây, tôi đọc được bài ký sự sống động đã cho tôi một bài học trân quý về nền giáo dục của Hoa Kỳ từ tác giả Hạ Vũ, với câu chuyện “Tôi làm Cô giáo nhà trẻ Mỹ” trên mục VVNM trang Việt Báo. Tác giả kể chi tiết từng hoạt động và phương pháp chăm sóc trẻ nhỏ tại lớp học. Từ việc chuẩn bị môi trường sạch sẽ, an toàn và cách cho trẻ ăn uống, vệ sinh đến giấc ngủ trưa yên lành; ngay cả việc vệ sinh cho bé cũng phải hết sức kiên nhẫn và luôn dùng chữ “please” để khởi đầu và cho biết mình sắp làm gì đó cho trẻ, chữ “thank you” để cảm ơn trẻ đã cộng tác, dù việc đó là phục vụ cho chính các em.
Trong 53 năm, chúng tôi kề cận, nhường nhịn, yêu thương và chăm sóc nhau để cùng xây dựng cuộc sống riêng sau khi cả hai chúng tôi học xong đại học. Chúng tôi đã có một gia đình nhỏ an vui với hai con trai. Và từ khi chúng tôi đem hai cô con gái nhà người dưng, mang về làm hai con gái ruột nhà mình thì gia đình chúng tôi có thêm ba đứa cháu. Nay, các con đã thành nhân, các cháu thì đã có đứa chuẩn bị vào đại học. Hai con trai của chúng tôi đã có nghề nghiệp vững vàng, chúng đã có nhà riêng. Chúng tôi già dặn hơn cùng với sự trưởng thành của con cháu. Hai chúng tôi đã về hưu, vẫn cùng có nhau, tiếp tục nhường nhịn, chăm lo cho nhau trong những năm tháng cuối đời...
Dallas mới qua một đợt lạnh khủng hoảng sau lễ tình yêu, nghỉ học nghỉ làm tuyết đá đầy đường. Hy vọng là đợt lạnh cuối mùa vì thời tiết Texas khó đoán bởi đôi khi sang tháng tư còn tuyết. Tội nghiệp những người thích trồng, họ thường gieo hạt giống trong garage từ cuối tháng hai để sang tháng ba là đậu bắp đã cao được gang tay, cà chua non nhìn mắc ham, những cây ớt xanh mát mắt... Đợi tháng ba cho ra vườn là sớm có ăn, nhưng đầu tháng tư trời lại đổ cho trận tuyết làm cây con chết ráo. Những người mê trồng tính khôn ăn sớm nên gieo hạt trong garage từ cuối tháng hai lại hoá ra ăn muộn vì phải gieo hạt lại lần nữa.
Các nhà khoa học có thể đưa ra tuổi thọ trung bình của một người, nhưng chưa có một thống kê nào cho biết mỗi người từ khi sinh ra cho đến khi nằm xuống đã ở được khoảng bao nhiêu căn nhà! Điều này có thể nói lên mỗi người có những nhu cầu “xê dịch” rất khác nhau. Sau hiệp định Genève 1954, cuộc sống của người Việt Quốc Gia chỉ trong phạm vi từ vĩ tuyến 17 cho đến Mũi Cà Mau. Nhưng kể từ năm 1975 cho đến nay thì “nhà Việt Nam” đã có mặt tại hơn 130 quốc gia trên thế giới. Mỗi một căn nhà của người Việt trên quê người gói ghém tất cả những thăng trầm của một đời lưu lạc nơi đất khách; là những vinh nhục, được mất, hy sinh, đánh đổi để tồn tại. Biết bao người bôn ba ra hải ngoại đang sống trong những căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi; nhưng từ trong sâu thẳm họ vẫn không quên được căn nhà cũ của mình trên quê mẹ!
Chị Bông đọc xong email của người bạn chỉ cách muối cà pháo ăn liền, lại còn minh họa theo một bát cà pháo dầm nước mắm tỏi ớt trông thật ngon lành hấp dẫn. Suốt hai tuần lễ qua chị lấy vacation về phố Bolsa California thăm người nhà, ăn uống thịt thà, tôm cá mỡ màng nên bỗng thèm món ăn nhà quê dân dã này. Chị lái xe ngay ra chợ mua vài pound cà pháo, ăn đổi món và để giảm cân. Sau chuyến đi chơi Cali chị đã tăng 2 pounds.Về nhà chị thực hiện như bạn chỉ, xẻ cà ra, ngâm nước muối cho ra bớt chất độc hại thâm đen. Trong khi chờ đợi cà còn ngâm trong chậu, chị Bông pha sẵn một bát nước mắm tỏi ớt đậm đà. Món này chỉ ăn với cơm trắng cũng đủ ngon nhớ đời.
Nhạc sĩ Cung Tiến