Hôm nay,  

Một Mảnh Đời

19/05/202115:50:00(Xem: 5662)

Trương Ngọc Anh

Ngọc Anh là tác giả Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên. Sau vụ khủng bố tấn công làm nổ tháp đôi ở New York, cô viết bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể chuyện sở làm, một công ty chủ nhân người Ả Rập Hồi Giáo, nhưng hàng trăm nhân viên đủ gốc Á Âu, Do Thái... sống với nhau hoà thuận. Bài viết được trao tặng giải thưởng danh dự năm 2002. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.

***

 

Vậy mà không hiểu tại sao, hồ sơ bảo lãnh của má cũng đi trót lọt, và bây giờ tui đang ở Mỹ. Mấy người kia họ nói “Người ta được đi Mỹ thì cười, còn mầy được đi Mỹ sao mầy lại khóc?"

 

***

Tui thích uống trà vào buổi tối. Loại trà Móc Câu hương thơm tinh khiết tới nỗi phải chờ hơn tiếng đồng hồ sau bữa ăn, khi miệng không còn mùi đồ ăn nữa, mới thưởng thức mùi hương nhẹ nhàng của sen ướp trong trà.


Trà tui pha trong chiếc ly cao, hình dáng thanh mảnh, có vẽ những bông thược dược màu xanh, xòe những cánh cũng mỏng manh. Những cánh bông úp vào nhau như thì thầm trò chuyện, những cánh cong xòe ra ngoài như vẫy tay chào. Cũng có những búp non ửng màu hồng của bình minh rất tươi. Bên trong ly là một cái ly nhỏ, có những lỗ tròn, để đựng trà, với cái nắp cũng vẽ bông hoa rất ngộ.


Tui uống trà khó tánh. Nước phải thật sôi, tráng tách trước cho nóng, chế nửa ly nước sôi, rồi mới bỏ một nhúm trà vô ly nhỏ, đậy nắp để giữ nóng. Trà tui thích pha vừa vừa, không quá đậm, cũng không quá lợt. Vì vậy tui phải canh chừng, không để trà ngâm lâu hơn một phút. Nhiều người nói trà phải uống đậm mới ngon, vị ngon của trà từ vị đắng và vị chát để lại trên đầu lưỡi. Tui không thích vị đắng, đặc biệt với loại trà Móc Câu này, pha đậm quá sẽ mất đi mùi hương rất đỗi dịu dàng của sen ướp trong lá trà.


Tui quen sống cô độc từ thuở nhỏ, có lẽ vì thiếu tình thương của Ba và Má.


Nói thiếu tình thương cũng không thực sự đúng, Tui vẫn có rất nhiều tình thương từ ông bà Ngoại, và bà con họ hàng từ hai bên Nội, Ngoại.


Ông bà Ngoại nuôi tui từ khi mới đẻ. Mới một tháng là Má đã mang tôi về nhà Ngoại, để cho Ngoại nuôi, để Má theo Ba đi tùm lum chỗ nào ai mà biết. Hồi đó Ba làm lính đánh giặc.


Tui chưa thấy ai thương chồng tới nỗi bỏ con cái mình như Má tui.


Mà có phải Má bỏ chỉ một mình tui đâu.  Má bỏ cả bầy sáu đứa con.


Khi Bà Ngoại mất, tui đau lòng lắm. Má với Ba ở Mỹ về thọ tang. Lúc đó tui cũng đã hơn ba mươi tuổi, chớ có còn nhỏ nhít gì đâu. Nhưng từ thuở 5, 6 tuổi, tui đã bị mang tiếng “con khùng” nên lớn lên, rồi già chát, cái đầu có lưa thưa tóc bạc của tui vẫn nhỏ xíu như thuở mới 10 tuổi thôi hà. Tui nhớ hôm đó tui khóc nhiều, thương Ngoại, nghĩ tới nỗi cô độc khi trên đời không còn Ngoại để thương “con khùng”.


Má về, đòi đem tui đi qua Mỹ ở với Má và Ba, vì Ngoại chết rồi, không ai lo cho tui.


Tui đâu cần ai lo, từ nhỏ tui chỉ biết có Ngoại thôi mà.


Tui khóc, kể lể: “Má đâu có nuôi con, má đâu có thương con, chỉ có Ngoại thương con thôi”.


Má nói Má không nuôi nhưng má vẫn gởi tiền về đầy đủ cho Ngoại lo mà.


Má hiểu làm sao khi “con khùng” suy nghĩ, tiền của Má gởi về đâu có mang tình thương của Má về cho con cái. Đẻ đứa nào, má quăng đứa đó cho Ngoại nuôi. Chị tui vừa mới sanh hai tuần, Má đã giao Ngoại, để đi theo Ba.


Ngoại nhận lãnh đứa cháu đỏ hỏn non nớt như cọng cỏ non dưới ánh mặt trời. Rồi Má đẻ tui, Má cũng thảy cho Ngoại, rồi đi mất tiêu.


Hồi 3, 4 tuổi gì đó, Ngoại kể, tui thường xuyên bị nhức đầu. Tối ngày hở ra là tui ôm đầu khóc:


“Ngoại ơi, đầu con đau”. Tui khóc nhiều lắm, ngủ không được, Ngoại nói.


Khi cậu Mười lo lắng, nhắc với Ngoại đem tui đi bác sĩ thì đã hơi muộn. Bác sĩ khám phá tui bị bịnh đau màng óc. Ngoại phải đem tui vô nhà thương để mổ, đầu tui bị cạo trọc lóc.


Nhưng vì tui nhỏ quá, nhà thương không dám mổ. Họ cho thuốc để trị.


May sao, tui bớt lần. Nhưng có cái gì đó không ổn trong bộ óc nhỏ xíu.


Tui không thích đi học.


Vô lớp, tui không thể nào tập trung vào những chữ Thầy Cô dạy. Đám bạn bè độc ác bắt đầu gọi tui là “con khùng”.


Tui trốn học, lang thang cho tới giờ tan trường mới đi về nhà. Tui sợ tụi nó quá.


Khi Ngoại biết thì Ngoại không cho tui đi học nữa vì sợ bạn bè chọc làm tui buồn. Từ đó trở đi tui không biết chữ, mà cũng không cần biết chữ, vì đi học cứ bị kêu “con khùng” hoài làm sao ưa.


Tui thù trường học từ đó.


Ngoại tui cứ phải qua nhà hàng xóm mắng vốn ba má tụi nó:


“Nó khùng mà nó có qua nhà mầy ngồi trên bàn thờ nhà mầy không? Nó khùng mà nó có đốt nhà mầy không?"


Đó là những lời Ngoại kể, chớ tui có nhớ gì đâu.


Càng ngày tui càng sợ những đứa hàng xóm cùng tuổi. Với lại, tụi nó cũng không thèm chơi với “con khùng”. Rồi má sanh thêm em kế, rồi em kế, rồi em kế nữa. Má cũng thảy con cho Ngoại nuôi. Sáu đứa, Ngoại chăn không nổi. Ngoại đâu rượt nổi bầy cháu phá phách, mỗi năm Ngoại mỗi già. Vậy là Ngoại đem ba đứa em tôi sang nhờ bà Nội tiếp nuôi dưỡng mấy cháu. Chị em lại phải chia hai, xa cách nhau.


Nhà Ngoại khá giả, nên ăn uống thoải mái. Ở nhà Ngoại, bữa ăn nào cũng thừa mứa cơm canh, đồ ăn.


Lâu lâu tui cũng được Ngoại đưa qua thăm Nội vài ngày, để chị em gặp nhau. Tui không thích nhà Nội như nhà Ngoại. Mỗi lần tới chơi tui hay bị đói vì nhà Nội cũng giàu mà sao bữa ăn Nội dọn ra mỗi món ăn đều có chút xíu, trong những chén dĩa cũng nhỏ xíu. Tui không dám gắp đồ ăn, cũng không dám bới cơm. Gia đình Nội người Huế. Sau này lớn lên tui mới biết đó là cách sống trưởng giả của người Huế. Tui không thương Nội nhiều như thương Ngoại vì ít gần gũi.


Má tui chắc không bao giờ nghe những lời Ngoại tui nói “Con không có cha có mẹ ở gần, ai cũng chửi mắng, cũng ăn hiếp được”.


Chắc tui thành “con khùng” cũng vì bị tụi con nít hàng xóm chế giễu.


Ngoại thương tui lắm. Cứ nhớ tới Ngoại là tui khóc không ngăn được. Không có tình thương của bà Ngoại với ông Ngoại, chắc tui không phải là “con khùng” mà tui đã chết từ lâu rồi. Má làm sao hiểu, tui thèm khát hai tiếng “Má ơi”.


Hồi đó Má với Ba đã qua Mỹ sống rồi.


Ngoại chết, tui sống bơ vơ với mấy Chú Thím và ông Ngoại. Dù Chú Thím thương yêu đùm bọc, dù còn có ông Ngoại, tui cũng buồn lắm. Chị với mấy đứa em tui lớn lên, lấy vợ lấy chồng. Ở chung với em trai một lúc, tui bị vợ nó ăn hiếp, chắc tại nó thấy tui “khùng”!

Có bữa tui đi chơi vòng vòng về trễ, vợ nó liệng chén đá bát. Thôi thì tui mua cái nồi nhỏ, mỗi ngày tự đi chợ nấu cơm nấu canh ăn một mình để khỏi làm phiền ai. Mười năm sau đó Má về Việt Nam hoàn tất giấy tờ để đem tui qua Mỹ.


Tui không muốn đi chút nào.


Ở Việt Nam, tui còn có ông Ngoại. Ông Ngoại già lắm rồi. Dù mấy đứa cháu tui cũng chăm lo cho Ngoại, nhưng biết có lo đầy đủ không? Tui vẫn nấu cơm nước cho Ngoại mỗi ngày từ khi bà Ngoại mất. Ông Ngoại già yếu lắm rồi, đi phải chống gậy, tai không nghe rõ nữa.


Năm nay tui bốn mươi lăm tuổi, nghe chị tui nhắc chớ tui đâu biết đếm số gì đâu. Trong gia đình, chị em ai cũng thương tui vì biết tui bịnh mà.


Chị tui đã có hai đứa con vô đại học rồi, em kế tui cũng đã có ba đứa con, em trai em gái đều đã có vợ có chồng, chỉ còn có tui vẫn là “con khùng”.


Ngày Má từ Mỹ về, dắt tui đi phỏng vấn, tui mong sao giấy tờ bị xù, để tui được ở lại với ông Ngoại. Tui trả lời rất khùng như họ hỏi thủ đô của nước Việt Nam tên là gì, tui trả lời là Sài Gòn, họ hỏi thủ đô nước Mỹ là gì, tui nói: “Tui hỏng biết, làm sao tui biết khi tui chưa ở Mỹ? Mà thủ đô là cái gì?" Họ tách rời Má với tui khi phỏng vấn nên tui tha hồ quậy hồ sơ. Khi họ hỏi 100 đồng trừ 3 đồng thì còn lại là bao nhiêu, tôi lẩm nhẩm, rồi trả lời “Tui hỏng biết”.


Họ gởi tui qua bịnh viện Chợ Quán để khám, lý do trí thông minh của tui không được bình thường. Đi Chợ Quán thì đi, tui đâu có muốn đi Mỹ. Ở Chợ Quán họ cũng quay tui hầm bà lằng sắn cấu. Họ hỏi tới biên giới nước Thái nước Miên gì gì đó nữa, tui chớ có biết, nhưng khi họ hỏi một đồng tiền đô la Mỹ bằng bao nhiêu đồng tiền Việt Nam thì tui sùng lắm, trả lời bằng một bao bố tiền Việt chớ nhiêu.


Vậy mà không hiểu tại sao, hồ sơ bảo lãnh của má cũng đi trót lọt, và bây giờ tui đang ở Mỹ. Mấy người kia họ nói “Người ta được đi Mỹ thì cười, còn mầy được đi Mỹ sao mầy lại khóc?"


Tui nhớ Ngoại quá, nhớ ông Ngoại còn sống lẫn bà Ngoại đã mất.


Bây giờ tui đang sống với Ba Má, có đầy đủ tình thương tui đã từng thèm thuồng ao ước từ hồi còn nhỏ, mà sao tui cứ khóc hoài.


Ở đây buồn quá hà. Tui muốn trở về Việt Nam, nơi đó tui còn có ông Ngoại để nấu cơm cho Ngoại ăn, tui còn được đốt cây nhang trên mả bà Ngoại, tui còn được chạy lên, chạy xuống chỗ này chỗ kia. Ở đó tui không đi lạc, còn ở đây tui như ở trong nhà tù.


Lâu lâu tui gọi điện thoại về Việt Nam để nói chuyện với ông Ngoại. Ngoại ưa hỏi:


”Con vui không, ở với ba má sướng quá hả con?”


Tui nói “Dạ, con vui lắm, Ngoại.”


Tui nói vậy trong điện thoại, nhưng nước mắt chảy ròng ròng, Ngoại đâu có thấy.


Tui nhớ bà Ngoại quá trời. Nhớ hồi đó Ngoại cứ kể đi kể lại nhiều chuyện hồi nhỏ, để tui đừng có quên, vì Ngoại nói dây thần kinh của tui bị yếu, sợ ngày nào đó tui không nhớ tui là ai….


Ngoại kể lúc tui còn nhỏ ưa bịnh lắm. Sau khi chữa xong bịnh đau màng óc, tui yếu lắm. Cả nửa người bên phải của tui gần như bị liệt, cầm cái gì rớt bể cái đó. Ngoại đã đút cho tui từng muỗng cơm, tắm rửa cho tới khi tui 12 tuổi. Tới giờ hai bàn tay của tui cũng bên nhỏ bên lớn, chân tui đi cũng còn hơi cà lết, nửa bên đít cũng hơi teo. Tui chỉ mới biết cầm đũa ăn một mình khoảng từ mười năm nay thôi. Tại lớn rồi, hỏng lẽ đi đâu chơi, có ăn uống, mà không biết cầm đũa ăn sợ người ta cười.


Tui cũng có vài bạn lúc còn nhỏ, mấy đứa hàng xóm đó. Tụi nó đi đâu có rủ tui đi theo cũng cực lắm vì tui ngồi hay bị té. Chắc cái gì đó trục trặc trong đầu nên tui không ngồi vững được. Tay chân tui có nhiều vết sẹo vì té ngã. Nhiều khi bị té chảy máu, tui chun lên lầu trốn Ngoại. Ngoại thương, không bao giờ đánh đòn. Khi tui lì quá, phá phách quá, hay nhõng nhẽo quá, Ngoại réo ông Ngoại “Nó lì quá, ông oánh nó vài roi cho tui”.


Vậy mà khi nghe tiếng tôi ré lên khóc là Ngoại quính quáng chạy ra la: “Sao ông oánh nó?”


Ông Ngoại lắc đầu: ”Thì bà biểu …”


Lớn lên, từ từ bạn bè tui đều xa lánh.


Cũng phải mà, đứa có chồng, đứa đi học, đi làm ăn xa, đi xuất ngoại. Chỉ có tui là không ai thèm cưới. Bi giờ tui chỉ có mấy bà bạn già năm, sáu chục tuổi. Hồi Ngoại còn sống, Ngoại cũng ưa nói với tui: "Thôi con, lấy chồng làm chi, cực khổ lắm!" Tui nghĩ chắc Ngoại nói đúng, tui không thích lấy chồng đâu, sống như vầy sướng hơn.


Ở đây tui buồn quá!


Má gởi tui theo học chương trình của những người lớn có bịnh chậm phát triển.


Má không dám cho tui về Việt Nam chơi, chắc Má sợ tui “đào ngũ” luôn. Hôm nào tui nói chuyện với ông Ngoại, xong điện thoại, tui ưa nằm khóc vì nhớ Ngoại.


Bà Ngoại chết đã mười năm rồi.

Ngày chôn bà Ngoại, ông Ngoại đòi làm hai bia mộ, một cái cho Bà, một cái cho Ông, đặt kề bên. Phải chừa một lỗ nhỏ, vừa đủ chỗ để chôn cái bình tro của ông Ngoại khi Ông chết; thiêu xác, phải chôn bình tro này sát bên cái hòm của bà Ngoại.


Tui nhớ hồi bà Ngoại còn sống, bà ưa nói với ông “Tui muốn chết trước ông, để ông coi sóc mồ mả của tui”.


Bà chết, Ông cũng như héo hắt chết theo.


Không có tui, ai lo cơm nước cho Ngoại bằng tui! Tui cũng biết đi chợ, biết nấu cơm mà. Mấy đứa cháu nó ham vui, có nhớ gì tới ông Ngoại già không. Tui lại khóc.


Mai mốt rành đường đi nước bước, tui sẽ mua vé máy bay, bay về với ông Ngoại.

Tui nghĩ là tôi sẽ làm, Má chờ coi, Má đừng hòng nhốt tui như nhốt tù.

Sao Má không cứ sống với Ba, như hồi đó, tui còn nhỏ. Có Ngoại mà, tui đâu có thiếu tình thương.


Ly trà đã nguội ngắt, nhưng mùi hương sen vẫn còn thoang thoảng bay trong không khí như dẫn đường tui về với Ngoại.


Trương Ngọc Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 701,698
Tôi có cô cháu dâu dể thương, có con học đại học University of Virginia và VA Tech. Cháu cho biết hai trường trên lá đổi màu rất đẹp và mời Ba Mẹ cháu, chị bạn, tôi đi xem lá vàng tiện thể thăm các con. Tôi nhận lời ngay và cháu đến đón chúng tôi vào buổi sáng đẹp trời. Mẹ cô và chúng tôi mang theo it nước uống, thức ăn dù không cần thiết.
Riêng Thịnh Hương thì rất vui được gặp lại anh chị Trần Dạ Từ Nhã Ca. Thấy anh đi đứng thẳng thớm và khá vững chaĩ sau cơn đột quỵ năm ngoái tôi mừng lắm. Anh chị là linh hồn của Việt Báo, là trụ cột của chương trình Viết Về Nước Mỹ. Nay anh chị đã quyết định giao “gánh sơn hà” lại cho con gái Hòa Bình để vui thú điền viên. Cầu mong con thuyền Việt Báo tồn tại lâu dài để những câu chuyện của người tỵ nạn có chỗ “dung thân” và đóng góp vào kho tàng văn hóa Việt Nam tại quê hương thứ hai ngày nay.
Nhưng lần tham dự Lễ trao giải kỳ này, em thực sự rất xúc động. Em chợt hiểu rằng, đây không phải là Viết về nước Mỹ. Đây là viết về Người Việt chúng ta. Về những câu chuyện đời góp nhặt trên quê hương thứ hai. Là cầu nối nhiều thế hệ người Việt lưu vong và cũng là cầu nối với người Việt trong nước. Để mọi người hiểu thêm về cộng đồng Việt Nam nơi này, đời sống ra sao, tinh thần, tình cảm thế nào.
Tôi mê xi-nê từ nhỏ. Ngày đó, mỗi lần được đi coi phim đối với tôi là cả một sự kiện lớn lao. Ba má tôi hiếm khi cho chúng tôi đi xi-nê ở rạp. Một trong những cuốn phim Việt Nam mà tôi còn nhớ đã được coi hồi nhỏ là cuốn phim đen trắng “Đôi Mắt Người Xưa” do cô Thanh Nga thủ vai chính. Trong lúc đó, trong cư xá sĩ quan nơi gia đình tôi cư ngụ, thỉnh thoảng có ông thiếu tá này hay ông đại uý nọ thường mượn máy chiếu phim của đơn vị về chiếu ngoài trời cho lũ trẻ trong xóm chúng tôi thưởng thức. Những cuốn phim đó không nhiều, thường là do Bộ Thông Tin & Chiêu Hồi sản xuất theo đơn đặt hàng của cục chiến tranh tâm lý thời đó. Phim thường nói về những cái ác của lính việt cộng và kêu gọi những kẻ lầm đường lạc lối đó hãy mau trở về với chánh nghĩa quốc gia. Hay có phim ca ngợi nét hào hùng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, cùng nỗi niềm của người vợ lính có chồng đang xông pha nơi trận mạc, chưa biết ngày nào trở về đoàn tụ với gia đình. Có vài cuốn phim đó thôi, được chiếu đi chiếu
Chiều Chủ Nhật, ngày 5 tháng 12 năm 2021, Lễ Trao Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ năm thứ 22 đã được long trọng tổ chức tại Hội Trường Đài Truyền Hình SBTN ở thành phố Garden Grove, miền Nam California, Hoa Kỳ, với sự tham dự trực tiếp của khoảng hơn 200 người, gồm các vị dân cử Việt-Mỹ, văn nghệ sĩ, các nhà bảo trợ, các tác giả VVNM, quý thân hữu, và đại gia đình Việt Báo.
Nhóm Việt Bút “âm thịnh dương suy”. Những năm về trước, trai đẹp, độc thân, vui tính, sồn sồn ở xa chỉ có Phan Hồ. Trai già rệu rạo còn liên lạc với nhóm VB đếm trên đầu ngón tay và đều rửa tay gác kiếm. Tếu chỉ có bác Tân Ngố và bác Ma. Bác Ma và bác Chương lên đường rồi. Bác Hân nghiêm túc. Bác Thời lụm cụm. Trai đẹp, tài năng cỡ Cao Minh Hưng hiếm như gươm (có chủ) lạc giữa rừng hoa. Gần đây có Lê Xuân Mỹ, Nguyễn Văn Tới…
Giữa tháng 10 hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại tổ chức họp mặt và ra mắt tuyển tập sách. Chị em gồm chị Đỗ Dung, chị Phương Hoa, chị Kim Phú và tôi là hội viên đã mua vé từ hãng Southwest tháng 3 năm 2020, nhưng vì dịch Covid- 19 nên không thể thực hiện. Lần này muốn đi, vì dù sao có 2 mũi Moderna cũng tạm yên tâm. Chị Phương Hoa đầu tàu, cuối tháng 9 tâm trạng chị nửa lo âu nửa thích đi, nên đang còn dật dờ, phút cuối chị Phan Lang phone nói khéo sao mà chị PH quyết định mua vé, lần này chị Đỗ Dung vắng mặt vì sức khỏe không được tốt.
Sau vài buổi hội họp, cân nhắc, bàn tán qua “Zoom meeting”, chúng tôi quyết định sẽ tổ chức “Đỗ Family Reunion” năm nay. Trừ những tiểu gia đình có con nhỏ chưa được chích ngừa, đại gia đình họ Đỗ sẽ lại hội ngộ, chung sống với nhau dưới cùng một mái ấm của Đỗ Gia Trang, Colfax- California suốt bốn ngày lễ Thanksgiving. Suốt mấy tuần lễ qua, chị em chúng tôi đều háo hức, nôn nóng được gặp lại nhau “in real life”.
Ngày 28.04.1975, người viết quay trở lại tỉnh vì bà xã hết hạn nghỉ phép, nhưng khi đến ngã tư Hóc Môn thì bị chặn lại không thể đi tiếp. Nhân viên kiểm soát cho hay hai bên đang đụng độ tại xã Tân Phú Trung thuộc tỉnh Hậu Nghĩa, giáp ranh với Hóc Môn tỉnh Gia Định. Đang phân vân, không biết nên chờ đợi để về tỉnh, hay quay lại Sài Gòn thì gặp anh bạn làm việc thâm niên tại US Embassy. Anh bạn này trao cho người viết danh sách 17 địa điểm và cho biết vào "giờ thứ 25" máy bay trực thăng từ đệ Thất hạm đội sẽ đáp xuống 17 địa điểm này để bốc người ra hạm. Anh ta dặn dò người viết cần mở đài radio của quân đội Mỹ băng tần FM. Khi nghe đài radio phát thanh bài hát White Christmas và loan báo thời tiết Sài Gòn "nhiệt độ 105 độ và đang gia tăng " tức là lệnh báo hiệu "giờ thứ 25" đã điểm
Steven với chị lâu nay đi chung xe, làm chung hãng, lại là đồng hương gốc mít với nhau. Steven cũng thấy chị Châu vốn bẳn tánh như thế, nhưng không ngờ đến mức độ này. Mới chỉ là cái danh hão, nếu mà cái danh thực có lợi thực thì còn đố kỵ cỡ nào nữa đây, thật ngán ngẩm cho đồng hương của mình. Hãng MITF này có đến bảy trăm con người, đồng hương gốc mít đếm không đủ mười đầu ngón tay, lẽ ra phải đứng chung với nhau, bảo vệ nhau, đằng này cứ nhè nhau mà kéo xuống. Thậm chí có ai đó còn nói:” Mỹ, Phi, Mễ, Xì… ăn không sao. Mít mà ăn là không được” lẽ nào dân mít với nhau cứ kèn cựa bôi mặt đá nhau như thế? Sau lưng chị Châu P có thằng Henry V chống lưng. Vị trí thằng Henry rất cao, chỉ dưới vài người nhưng trên bảy trăm người. Thằng Henry V dân gốc Lạch Tray, gia đình vào Sài Gòn sau bảy lăm. Nó vốn ma lanh và nhiều tiểu xảo vì vốn xuất thân từ hàng rong chợ trời, nhảy tàu ở Cống Bà Xép. Vượt biên sang Mỹ rồi chịu khó đi học và may mắn hơn nữa là nó vào hãng này đúng thời điểm