Hôm nay,  

“Alzheimer Với Mẹ Cũng Là Một May Mắn...”

11/06/201900:00:00(Xem: 13880)
Tác giả: Lê Xuân Mỹ
Bài số  5711-20-31518-vb3061119
 
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Năm 2019. Ông là anh cả trong 9 anh chị em, có người cha chết trong trại cải tạo Vĩnh Phú từ 1979, bà mẹ một mình lo cho các con. Ông qua Mỹ năm 1998 diện đoàn tụ ODP, hiện là một kỹ sư, làm việc tại Kia-Tencor San Jose, California.  Bài viết mới được “Viết trong ngày  sinh nhật 88 của Mẹ,” Tựa đề được trích từ lời kết của bài viết xúc động: “Căn bệnh Alzeithmer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian.”

***

Đã từ lâu, mẹ không còn nhớ ngày sinh nhật của mình. Với căn bệnh alzeithmer, thời gian và không gian chỉ là một khái niệm mơ hồ nào đó trong ký ức. Nỗi nhớ về những ngày tháng xa xưa đôi khi hiện lên rất rõ ràng nhưng ngày tháng hôm nay chỉ là đám mây mờ của sương khói.

Mẹ có thể ngồi hàng giờ trước truyền hình để chỉ coi đài Mễ. Tiếng Mỹ hay tiếng Việt đều OK. Miễn là có hình ảnh chuyển động trước mặt. Gặp ai cũng tay bắt mặt mừng. Cũng thấy quen quen. Nhưng tên thì không bao giờ nhớ. Con cháu có đến thăm cũng chỉ cười vui năm ba phút rồi lại trở về chiếc sofa quen thuộc, lặng lẽ một mình.

Vậy mà hay. Nếu trí nhớ còn minh mẫn, trong nỗi cô đơn, mất mát và hận thù, có lẽ bà sẽ không sống được đến ngày hôm nay.

Tôi sống với mẹ trong hầu hết 65 năm của đời mình. Những năm tháng thanh bình hạnh phúc trước 75, những ngày đen tối sau mất nước, những năm tháng bên mẹ trên vùng đất tạm dung và những ngày mẹ đang mất dần ký ức. 9 anh em ai cũng thương mẹ. Không thể nói là mình thương mẹ nhất vì các em có lẽ sẽ có đứa thương mẹ hơn tôi. Nhưng chắc chắn một điều, để nói về mẹ, không ai hiểu mẹ hơn tôi, và chắc chắn không ai thương tôi bằng tình yêu của mẹ.

Mẹ là một người rất đặc biệt. Gia đình có 5 anh chị em. Người con trai bị Việt Minh giết chết từ nhỏ, chỉ còn lại 4 chị em gái. Mẹ là con út. Trong khi các bà chị hiền lành ít nói bao nhiêu, mẹ là người phải nói là cứng cỏi, lanh lợi và giỏi giang bấy nhiêu. Thuở nhỏ chuyên làm chim xanh, chuyên đi giao thơ tình cho các bà chị. Bà nào cũng lấy chồng có chức có quyền, có danh có phận, riêng mẹ tôi về làm vợ của ba tôi hồi đó chỉ là một công chức bưu điện bình thường. Mẹ là một người có đủ đức tính của một người phụ nữ Việt Nam thời xưa. Tam tòng, tứ đức. Nhưng không ai nói mẹ hiền. Trong nhà ai cũng sợ mẹ. Từ con cháu đến các chị. Mẹ thẳng tính, ăn to nói lớn. Nghĩ là nói không nể nang ai. Miễn sao phải thì thôi. Ba tôi sau này là một sĩ quan cảnh sát, nhưng tính tình hiền lành trái ngược hẵn với mẹ, nam tính cứng cỏi. Ba tôi chỉ lo việc sở, việc nhà toàn bộ một mình mẹ tôi quán xuyến. Anh em tôi lúc nhỏ phải nói là theo ba nhiều hơn theo mẹ. Xin gì ba cũng cho, năn nỉ một tí là ba xiu lòng ngày. Mẹ thì đừng hòng, cho thì cho ngay, còn đã không thì thôi. Tuyệt đối không được cải lại. Mẹ có một câu nói mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ: “ Mẹ bảo đi đường tắt là đường tắt, đi đường cong là cong, không “on đơ” gì cả”. Đúng ra mẹ nên là chồng, ba là vợ thì đúng hơn.

Sợ nhưng không ai ghét mẹ. Cứng cỏi, trực tính nhưng mẹ rất thương người, thương con thương cháu. Những người bà con nghèo khổ từ dưới quê lên chơi mẹ không một lời nặng nhẹ, luôn luôn đối xử hết lòng và vui vẻ. Biến cố mậu thân, gần 20 người hàng xóm chạy giặc từ Huế vào tá túc. Mẹ lo lắng chỗ ăn chỗ ở cả tháng trời. Không một lần chau mày. Tối các bà còn tụ lại thành các sòng tứ sắc, chơi đến khuya.

Không có mẹ, chắc chắn gia đình tôi không được như hôm nay. Ba tôi ngoài việc sở về nhà là bạn bè. Khi thì đánh bài chược, khi thì đánh tài bàn. Khi thì dẫn con cái đi chơi, khi thì đi đánh tenis. Mọi chuyện còn lại, sinh hoạt, nhà cửa, kiếm sống chỉ mình mẹ. Chạy ngược, chạy xuôi, hết buông cái này, bắt cái kia. Cái đồng lương sĩ quan cảnh sát hồi đó, chắc là không đủ cho một gia đình mười mấy miệng ăn. Ba hiền nhưng vô tâm đóng vai ông thiện, mẹ nam tính cứng cỏi “dữ dằn” đóng vai bà ác.

Mẹ là vậy. Người chỉ biết cho và chưa bao giờ biết nhận. Vợ tôi giống bà. Từ khi theo chồng, vui với cái vui của chồng, bạn bè của mẹ thì ít mà bạn của ba thì nhiều. Mẹ lặng lẽ sau lưng chồng chỏi với đời. Vừa nấu ăn khéo, vừa may vá tài. Mẹ học hành ít, chỉ mới hết cấp 2 nhưng xử lý mọi chuyện khôn khéo.

Tôi nhớ có lần ba đi công tác Sài Gòn. Đẹp trai, có chức có quyền nên chắc cũng có léng phéng gì đó với cô nhân viên nha cảnh sát. Không biết là có thật hay chỉ là tin đồn. Mẹ chẳng nói chẳng rằng, đi với ông tài xế, đáp báy bay vào Sài Gòn, tới tận văn phòng của ba, rồi sang bàn cô nhân viên.


Để khẩu súng một cái cụp lên bàn làm việc (chắc là súng không có đạn của ông tài xê). “Tôi là vợ của ông Đ. Ông đã có vợ và 5 con. Cô hãy liệu hồn. Nếu lần sau còn nghe được chuyện gì về cô với chồng tôi. Đừng trách tôi không nói trước.” Xong chuyện, đơn giản và dứt khoát. Cô đó sau đó êm re và ba tôi cũng êm re.

Mẹ chưa bao giờ làm gì cho riêng mình. Ba làm cảnh sát. Thay đổi chỗ ở như chong chóng. Lúc thì Đà Nẳng, lúc thì Huế. Mẹ đem con cái theo ba không một lời phàn nàn. Lấy chồng, mẹ đã không còn là cô gái quê xóm An Lăng dưới chân núi Ngự Bình năm nào. Một tay mẹ gìn giữ giang san nhà chồng. 9 anh em tôi tuy rất sợ mẹ nhưng chưa bao giờ hết yêu mẹ cũng như chưa bao giờ mẹ hết yêu chúng tôi.

Sau 75, mất nước, ba bị đi cải tạo ngoài Bắc, căn nhà tại Đà Nẳng bị cộng sản chiếm. Căn nhà đang ở tại Sài gòn bị tịch thu vì thuộc diện ác ôn. Tay trắng, mẹ và anh em chúng tôi trải qua những ngày tháng vất vả đen tối. Các em còn nhỏ, là con đầu, dâu trưởng, vợ chồng tôi cùng mẹ bương chải đủ mọi ngành nghề, len lỏi để tồn tại trong cái thành phố từ ngày đó đã không còn thuộc về mình. Những con người bại trận. Những khó khăn, những bi thảm mà chỉ những ai có trải qua mới cảm nhận hết. Những ngày sắp hàng lãnh phần bo bo thay gạo, khoai mì cứng ngắt thay cơm. Những hôm bán hàng lề đường, bỏ chạy trốn công an. Những ngày lặn lội tìm cha, tìm chồng trong trại cải tạo biên giới phía Bắc xa xôi. Những ngày băng rừng, lội suối tìm thăm chồng, nhưng rồi chỉ để được ôm xác chồng còn ấm trên tay. Những đêm len lút đào xác chồng đem về chôn lại trong vườn nhà ôn mệ.

Không ai nghĩ là mẹ chịu đựng được. Những nỗi khổ đau cùng cực và những mất mát không thể nào quên. Nhưng mẹ vẫn kiên cường vượt qua. Mẹ là một người rất tình cảm nên nỗi đau càng thêm sâu đậm.

Nhớ hồi đó, quen hay lạ, ghét hay thương, mỗi khi có ngưới đến ở nhà, khi chia tay, mẹ đều khóc, khóc ngon khóc lành. Mất đi người chồng một cách tức tưởi, tôi không nghĩ là mẹ đã sống được những quang đời sau đó. Đã có một thời gian điên dại, mẹ mỗi ngày đi từ nhà ra chợ. Vừa đi vừa khóc. Vừa đi vừa chửi chế độ. Cán bộ phường cũng không thể làm gì trước một người đã quên mất chuyện tử sinh.

Những thời khắc vô cùng khó khăn ấy tưởng không thể vượt qua, nhưng rồi mẹ vẫn phải nguôi ngoai, tiếp tục sống vì những đứa con còn non dại. Tôi vẫn luôn bên mẹ trong suốt khoảng thời gian bi thảm đó. Cho đến 1992, hơn 17 năm sau ngày mất nước, mẹ qua Mỹ cùng các em.

Đó là khoảng thời gian tôi xa mẹ lâu nhất. Cùng với một đứa em đi năm 75, 7 em đi năm 1992, mẹ và tất cả 8 đứa em định cư tại Mỹ. Vợ chồng tôi cùng ba đứa con còn phải sống với cộng sản thêm 6 năm nửa. Khoảng thời gian này, tôi có công việc đàng hoàng, kinh tế ổ định. Nhận được giấy bảo lãnh đi đoàn tụ theo diện ODP, tôi đã suy nghỉ, đắn đo thật nhiều. Có nhiều đêm thức trắng chỉ để tìm một câu trả lời. Nhưng cuối cùng tôi vẫn quyết định ra đi. Vì mẹ và vì nỗi hận mất cha không bao giờ phai.

Năm 1998, sau gần 7 năm xa cách, mẹ và 9 anh em chúng tôi cùng nhau đoàn tụ trên một đất nước xa xôi. Ba tôi vẫn còn nằm lại trên quê nhà bên cạnh ôn mệ.

Qua bên này, mẹ không còn phải lo toan quá nhiều cho cuộc sống, nhà có chính phủ lo, con cái lần lượt ổn định, có công ăn việc làm, có gia đình riêng, nhưng nỗi nhớ chồng, nỗi nhớ quê nhà không hề nguôi ngoai trong mẹ.

Chính sự rãnh rỗi, những an bình của hiện tại đã thôi thúc mãnh liệt trong mẹ một nhớ, một nỗi đau trong quá khứ. Vết thương trong lòng sống dậy mãnh liệt trong những ngày tháng xa quê.

Bên này mọi chuyện không như mẹ nghĩ. Vì cuộc sống, những đứa con dần xa mẹ, mỗi đứa một nơi. Không còn những đêm 9 anh em quay quần bên mẹ. Những khoảng thời gian đoàn tụ bên nhau qúa ngắn ngủi. Và mẹ thấy mình cô đơn, vô dụng. Cái quyền uy của mẹ đã không còn. Mẹ thay đổi tính tình, dễ cáu gắt, quên trước, quên sau và thường xuyên bỏ nhà ra đi.

Mẹ bị Alzeithmer.

Mẹ về ở với vợ chồng tôi khi căn bệnh trở nặng và đúng lúc tôi bị tai nạn tại sở làm, dưỡng bệnh tại nhà. Với sự giúp đở, thương yêu của vợ, hiếu để của con cái, trong cái khí hậu ấm áp của miền bắc Cali, chúng tôi đã cùng ở bên nhau những năm tháng hạnh phúc.

Căn bệnh Alzheimer với mẹ cũng là một may mắn trong muôn vàn bất hạnh. Cái quên, cái lẫn sẽ làm mẹ có thể sống được với tôi, với con cháu thêm một thời gian. Chứ nếu không, chắc chắn, mẹ sẽ chết vì nỗi nhớ chồng và nỗi nhớ quê hương.

Lê Xuân Mỹ

Ý kiến bạn đọc
15/06/201901:10:53
Khách
Lời văn súc tích đầy đao nghĩa qua ba bài viết của tác giã Lê Xuân Mỹ mong sẽ tiếp tục nhận thêm những bài mới
13/06/201903:33:15
Khách
Có những lúc ta phải cố tìm ra một sự an ủi hay lạc quan để mà có thể sống qua được một tình huống khó khăn, bất hạnh trong cuộc đời đầy khổ ải ! Lời văn trình bày ngắn gọn, mạch lạc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,566,071
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Mừng Tết Kỷ Hợi đang tới, mời đọc chuyện tình tất niên của tuổi hạc.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Sau đây là bài viết thứ ba của cô.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bài mới của tác giả kể về khóa Thiền Vipassanna 10 ngày mà bà đã tham dự. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi, đang phát hành khắp nơi.
Tác giả tên thật Quách Ngọc Ánh, sinh năm 1954, hiện là cư dân Garden Grove, CA. Trước 75 học Sư phạm Sai gon, một thời dạy học tại miền Trung Việt Nam, định cư tại Hoa kỳ theo diện H.O. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà từ Tháng Sáu 2013 là một hồi ức xúc động về việc đi tìm người thân chết khi vượt biển. Sau đây thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật là Trần Văn Hai, hiện đã là cư dân hưu trí tại Nashville, TN. Thư ông viết: Tôi thường xuyên theo dõi và đọc bài viết trên trang Việt báo online. Đây là bài viết tôi gởi về cho tòa soạn đầu tiên, mong nhận được sự góp ý. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là bước khởi hành tốt: gọn nhẹ, giản dị và thành thực. Mong tác giả tiếp tục.
Tác giả quê gốc Kinh 5 Rạch Giá, hiện là cư dân Seattle, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm 2010. Ba bài đã viết là chuyện 30 năm của gia đình bà: Vượt biển tới đảo tị nạn, sau 7 năm chờ đợi, bị buộc phải hồi hương. Nhờ chương trình ROV, gia đình vẫn tới được nước Mỹ, và với sức phấn đấu chung, tất cả đã đứng vững.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài mới của tác giả.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018. Bài viết sau đây được trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019, hiện đang phát hành khắp nơi.
Chỉ còn hai tuần nữa là Tết Kỷ Dậu 2019, mời đọc bài viết mới của Chu Kim Long. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông tên thật là Chu Văn Huy, cựu tù, vượt biển, hiện là cư dân San Jose, đã nghỉ hưu sau 37 năm làm việc cho các hãng điện tử tại Silicon Valley - Thung lũng Hoa Vàng, California.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và vừa chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.