Hôm nay,  

Khung Trời Đỏ

06/06/201800:00:00(Xem: 12758)
Tác giả: Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Bài số 5406-19-31247-vb4060618

 
Cam Li là cây bút quen thuộc của Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Bài viết là một truyện ngắn mới, tác giả gửi tặng cho bạn đọc Việt Báo.


***

1.

Anh reo lên:

“Golden hour!”

Ôi, phút giây diệu kỳ mà anh ao ước, mà anh đã chuẩn bị để bắt lấy nó, trên vùng núi non này, là đây! Anh sửng sốt. Từ tảng đá cao này, anh có thể đảo mắt theo một vòng tròn nhìn trọn vẹn quang cảnh. Một màu vàng như đột ngột đổ xuống từ trời, nhuộm hết mọi thứ: mỏm núi cao xa tít, dãy núi thấp bao quanh đường đèo, đám rừng thông chập chùng ẩn hiện. Anh ngây ngất… Đã bao nhiêu lần săn được những cảnh đẹp dưới ánh nắng chiều, chưa có lần nào được như bây giờ. Có phải là do vị trí đứng đặc biệt này? Có phải là do cả một ngày dang nắng mệt nhọc và bây giờ được đền công? Hay là do địa hình hùng vĩ mà thơ mộng nơi đây, với núi rừng soi bóng trên mặt hồ xanh thẫm? Anh say sưa nhìn ngắm như thể uống hết cảnh tuyệt đẹp vào đôi mắt. Rồi chợt bừng tỉnh, anh nhìn vào ống kính của chiếc máy ảnh đã đặt sẵn sàng trên giá, bấm máy. Anh vẫn quen theo cách của mình, chụp rất nhiều hình từ một cảnh, theo nhiều góc độ chỉ nhích khác nhau một chút xíu. Anh cũng say sưa bấm máy như muốn nhốt hết không gian và thời gian vào khung kính. Anh sẽ rất hài lòng khi về nhà được tha hồ chọn ra những tấm vừa ý.

Anh ngắm các tấm ảnh mình vừa chụp. Ở tấm cuối cùng, anh lại sững sờ. Tương phản với màu của hồ và núi rừng đang tối dần, anh đã thấy một bầu trời đỏ rực.

Khung trời đỏ!

… Có tiếng người xôn xao như từ dưới chân các tảng đá cao vọng lên. Tiếng nói rõ dần, rõ dần…

“Mau lên! Mau lên!”

Anh nhìn xuống, nheo mắt.

“Cắm cờ lên! Mình tới đỉnh đồi rồi!”

Ai vậy? Anh nhận ra giọng nói của người mới chuyển đến. “Anh lính mới”, người lính trẻ tuổi nhất tiểu đội, người mà lúc nào cũng nhắc tới má, chắc là chưa có người yêu. “Anh lính mới” bị chọc ghẹo nhiều nhất và cũng được cưng nhiều nhất.

Rồi có tiếng của nhiều người. Là đồng đội của mình! Anh nhận ra tiếng của từng người. Ồ, không những thế, anh có một trí nhớ lạ lùng, anh nhớ cả nhóm máu, nhớ cả số quân của từng người lính dưới quyền mình. Điều đó khiến mọi người cảm động và biết ơn anh. Nhưng anh không tự cao. Anh dùng cái trí nhớ lạ lùng đó để làm được nhiều việc có ích và kịp thời cho anh em. Nơi nào đã đi qua, anh nhớ từng chi tiết. Bạn bè lâu ngày gặp lại, anh không quên chút gì về họ. Chuyện Đông chuyện Tây, anh đọc hoặc nghe qua một lần là nhớ luôn…

Trên nền trời đỏ rực, anh thấy lá cờ vàng bay phấp phới. Chính tay “anh lính mới” cắm ngọn cờ. Thành cổ đã chiếm lại được. Mọi người reo hò trong nước mắt. Đã hiện lại nơi đây, một mùa hè đỏ!

Và anh hơi sững khi thấy người đến trước mặt mình là cô em bạn cùng nhóm, không phải “anh lính mới”. Cô khoe anh bức hình cô chụp được trong máy. Cô tấm tắc khen màu đỏ của bầu trời. Bỗng nhiên anh hoảng hốt. Anh nhớ như in gương mặt của “anh lính mới”, trong trận chiến tiếp theo, nhạt nhòa trong nước mắt của anh. Anh đọc nhóm máu của người lính, nhưng không kịp làm gì để cứu em, vì em ra đi nhanh quá. Em ra đi mang theo nét cười hồn nhiên và đôi mắt trong sáng chưa vướng chuyện tình yêu, chỉ thoáng ưu tư mỗi lần nhắc đến má.

Vâng, thời trai trẻ của anh, có những người lớn làm trẻ con, bởi chưa kịp yêu, bởi chiến tranh đi vào cuộc đời của họ sớm hơn người yêu. Như anh, già dặn nhất đơn vị, thế mà vẫn cứ làm “anh lính mồ côi”. Mồ côi là vì chưa có người yêu, thế thôi. Ai có hỏi vì sao, anh chỉ mỉm cười.

“Anh sao vậy? Anh có thấy tấm ảnh này đẹp không?” Cô bạn hỏi.

Anh giật mình.

“Ồ, đẹp! Đẹp lắm! Đẹp ở màu trời đỏ.”

“Vậy ư? Em lại thấy màu xanh của hồ đẹp hơn.”

“Phải, phải. Màu xanh trông thật yên bình.”

Các bạn khác cũng đến gần bên anh, bàn với nhau về các loại ống kính. Anh cũng gật gù trả lời họ. Nhưng tâm trí của anh giờ đây lại trôi về một nẻo khác, nơi có màu xanh của con sông, dòng suối, mặt hồ… những nơi anh đã từng đi qua…

 
2.

“Tuần tới nhóm mình đi săn lá vàng nhé!” Anh trưởng nhóm đề nghị.

Mọi người tán thành. Chẳng là mùa thu đã về. Một chị nói vui:

“Lại đi?”

Người khác:

“Đi chứ! Thiên nhiên đẹp quá mà!”

“Ừ thì lại đi.”

Anh lẩm bẩm: “Lại đi!” và nghĩ đến Má. Má hiện ra trước mặt, nói:

“Lại đi!”

Câu nói của Má không có dấu chấm hỏi, mà là dấu chấm than. Bao nhiêu lần đều là như thế. Anh về với gia đình được vài ngày, rồi lại đi. Má lại gói ghém, bới xách, làm những món ăn anh thích. “Lại đi!” Câu nói chỉ vỏn vẹn hai từ nhưng ẩn chứa nỗi niềm chịu đựng. Cũng không than trách. Cũng không hối thúc. Má vui với những lúc con về, và mong ngóng khi con đi. Nhà đông con, nhưng mỗi đứa được Má thương một kiểu. Và Má vẫn thường bênh vực những đứa nhỏ hơn, cứ như sợ họ bị anh chị ăn hiếp. Ấy thế mà những lời nói của Má từ hồi anh còn nhỏ đã ăn sâu vào trong tâm. Mỗi lần anh làm em út giận hờn, Má thường la anh: “Đừng chọc em!” Anh cũng giễu các đàn em trong đơn vị mỗi khi có dịp vui chơi, rằng “Đừng chọc em!” Mọi người thường phá lên cười. “Huynh đệ chi binh” là thế!

Anh tự hỏi: “Sao mình cứ liên tưởng từ thực tại qua quá khứ thế nhỉ?” Đã biết bao lần anh muốn mình chỉ sống với những gì đang có, vui với những gì trước mặt. Nhưng sao thời gian cứ chảy thành dòng. Anh đang đi trên nhánh sông êm đềm, bỗng đến một ngả rẽ, dòng nước lũ từ đâu đổ ào tới. Như là các đoạn thời gian gặp nhau, đan xen, lẫn lộn vào nhau. Có lúc anh choáng váng, tưởng mình không thể đẩy lùi được quá khứ. Có lúc anh đang hân hoan với một tấm hình sáng sủa vừa chụp được, thì một điểm đen xuất hiện trên hình và lan dần, lan dần… Anh thảng thốt. Hay là mình đang mắc một chứng bệnh gì đó? Anh đâu dám kể cho ai nghe.

Đa số các bạn trong nhóm này là những người trẻ hơn anh. Họ thuộc về một thế hệ bình yên, không biết hoặc biết rất ít về chiến tranh. Anh và họ hợp nhau trên phương diện nghệ thuật, còn tâm tư, tình cảm lại có một khoảng cách không nhỏ. Anh vào nhóm chụp hình để tìm lại thú vui ngày còn đi học, nhân đó cũng được dịp học hỏi, chia sẻ với nhau về cách chụp những tấm ảnh đẹp, thế thôi. Ngày xưa anh nhịn ăn quà để mua được một chiếc máy ảnh cũ là cả một kỳ công. Còn chưa kể phải tốn tiền mua phim, tráng phim, rửa ảnh. Bây giờ có nhiều loại máy ảnh đắt vô cùng, nhưng người ta vẫn có thể sắm được mà không cần bỏ ống heo và chờ đợi mỏi mòn. Bây giờ không tốn tiền mua phim mà vẫn có thể bấm một lần cả mấy chục tấm. Tấm nào không ưng ý thì sau đó được “delete”, bỏ đi không thương tiếc.

Trên mặt trận, anh không có thì giờ chụp ảnh. Anh phải cùng đồng đội chiến đấu. Đôi mắt là cái ống kính tuyệt vời nhất. Anh đã “chụp” được rất nhiều ảnh. Những hình ảnh không cần phải “săn”, mà hiện ra bất chợt, lưu lại trong đáy mắt, sâu vào trong trí nhớ khôn nguôi. Không phải cảnh núi, đồi, sông, suối, mà là khói, bụi, lửa, mồ hôi, nước mắt và máu.

Anh thấy nhớ quá, những đồng đội, những người đã nằm lại trên chiến trường…

 
3

“Đêm hôm qua, em nghe anh nói trong giấc ngủ.”

“Sao? Anh mớ à?”

Chị bật cười:

“Phải, anh mớ, anh gọi tên cô nào ấy!”

“Chết anh rồi! Thế… thế em có ghen không?”

Chị lườm:

“Ghen làm chi? Có cô nào thì cũng đã là quá khứ.”

“Sao em nghĩ là quá khứ?”

“Em dám chắc như vậy, bởi anh lúc nào cũng nói đến chuyện xưa.”

Anh thở dài. Anh không đính chính. Chị nói đúng. Chị là người hiểu tính anh hơn ai hết. Nhưng anh thấy mình có lỗi với chị. Anh đã để cho quá khứ đan xen với hiện tại, không phải trong giấc mơ, mà ngoài đời thực.

Như sáng nay, trong lúc cả nhóm say mê chụp ảnh trong rừng aspen, anh đã bỏ mọi người để chạy theo một bóng áo tím. Tà áo ẩn hiện, có lúc nổi bật trên nền vàng của lá, có lúc biến mất cuối nẻo đường xanh. Anh miệt mài chạy. Có lúc anh tưởng như đã đến gần, rất gần… Nhưng anh vẫn không nắm được bàn tay của nàng. Và đó là cô gái của xóm nhỏ năm xưa. Anh yêu cô nhưng không thể nói. Vì anh đi mãi không dừng. Và cũng vì khi trở về xóm nhỏ, anh không còn nhìn thấy nàng nữa. Nàng như chiếc lá bị cuốn theo cơn gió. Nàng chìm trong dòng người xuôi nam. Khu xóm nhỏ đã thành bình địa… Và như thế, gió, gió từ mọi hướng xoáy quanh anh. Anh chới với, hoảng hốt, rồi nhận ra một giọng nói quen:

“Anh làm sao vậy? Cần em giúp gì không?”

Thì ra anh đã trở lại điểm khởi đầu. Máy ảnh của anh còn ở yên trên giá. Anh thở dài, và bấm máy như một phản xạ. Nhưng, ôi, một cơn gió khác lại ào đến, và lá, lá rơi nhiều lắm… Những chiếc lá như dòng người. Đâu đó, trong một tấm ảnh anh chụp được, bóng áo tím đã hiện ra.

 
4

“Nhiều người khổ vì quên, còn tôi khổ vì nhớ, thưa bác sĩ.”

“Đúng vậy.”

“Tôi có giống như một người vô tâm, đang ăn món ăn này mà tưởng nhớ tới món khác không, thưa bác sĩ?”

“Gần giống như vậy.”

“Tôi có bị chứng rối loạn nhận thức không ạ?”

“Không.”

“Tôi sợ mình bị bệnh tâm thần phân liệt ạ.”

“Lại càng không.”

“Nhưng tôi thường bị màu đỏ ám ảnh.”

“Là bình thường. Tôi cũng vậy.”

Anh giật mình, trố mắt nhìn vị bác sĩ, chợt nhớ đến chuyện chị kể khi chị bị chứng đau lưng lan xuống chân, đi đến thầy thuốc Đông Y, vị thầy thuốc nói ông và các trợ tá của ông cũng đang bị chứng đau lưng lan xuống chân, ai cũng phải uống thuốc và mang băng nẹp. Anh buồn cười.

Vị bác sĩ nói với giọng trầm xuống:

“Tôi không nói đùa. Tôi cũng bị màu đỏ ám ảnh một thời gian. Tôi biết rõ anh, vì tôi là bác sĩ của anh. Chúng ta là những người trải qua và sống sót sau cuộc chiến. Có những điều ray rứt trong lòng mình. Có những ám ảnh không nguôi. Ám ảnh vì chiến trận. Ám ảnh vì những cảnh khổ. Chưa hết, vì sống sót, chúng ta còn phải đối diện với sự quên lãng, thậm chí với sự bôi nhọ và sự phản bội. Nhưng tôi đã cố gắng chống chọi, và đã tạm thành công. Tôi biết mình sống vì cái gì. Tôi may mắn là còn được phục vụ trong ngành của mình. Mọi người đều có thể làm được. Tôi không dám khuyên anh điều gì, vì tôi tin rằng anh sẽ tự mình làm được.”

Anh bắt tay tạm biệt bác sĩ Jeffs, người bước vào và rời khỏi cuộc chiến Việt Nam khi còn rất trẻ.

 
5

Anh không bị bệnh gì. Anh tạm yên tâm với điều đó, và tìm cách tự thích nghi với hoàn cảnh. Anh không lo khổ vì quên, nhưng cũng sẽ không để mình khổ vì nhớ. Anh xem đó là món quà Trời ban, dù nó làm anh ray rứt, u buồn hay mòn mỏi.

Mùa xuân, anh trở lại vùng hồ, Donner Lake, một mình. Anh cũng đợi trời chiều, lúc mặt trời sắp lặn. “Golden hour!” Và như thế, anh chụp những tấm hình có mùa xuân, mặt hồ và bầu trời đỏ. Anh đứng lặng yên trên một tảng đá cao. Nơi đây, anh có được góc nhìn trọn vẹn nhất. Trước kia anh và các bạn tưởng quanh hồ chỉ là cảnh hoang sơ, nhưng ở vị trí này, anh thấy được cả một xóm nhỏ bên dưới, ven bờ hồ. Chỉ có vài ngôi nhà xinh xắn, khiến anh thốt lên những câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan mà anh thuộc lòng từ nhỏ. “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia.” Anh ngậm ngùi. Sao anh đứng đây mà vẫn luôn thấy mình còn nợ một cái gì nơi mảnh đất quê nhà?!!

Hôm qua, anh chụp hình cho thằng cháu nội. Đôi mắt trong sáng của nó khiến anh thấy hy vọng và bình an. Anh nhớ đến bác sĩ Jeffs, và anh mỉm cười…

 “Những người sống và thoát qua cuộc chiến tranh, như chúng tôi, tưởng như có cuộc sống đan xen giữa hiện tại với quá khứ. Đó không phải là “phân liệt”, mà gắn kết với nhau thành một. Tôi sẽ tự mình tạo cho quá khứ có một lằn mức để dừng lại, nhưng vẫn để cho các dòng thời gian gặp nhau khi cần. Tôi sẽ không phản bội chính mình. Và, kỳ diệu làm sao, không cần đến một bộ kính lọc nào cả, tôi chỉ còn thấy một tấm hình đen trắng, trong đó, một chàng trai trẻ mặc đồ lính, cười thật bình an. Là bạn tôi. Là em. Là tôi.”

 
 Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 4,211,165
Vài hàng vềû tác giả: Trước 1975, là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Định cư tại Hoa Kỳ từ 1985. Công việc: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu tại Westminster, từ 2002. Năm 2005, tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Sau đây là hồi ký của ông dành cho loạt bài “Tưởng nhớ 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân 1968 - 2018.”.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012. Trước 1975, ông là sĩ quan hải quân VNCH, một nhà thơ quân đội, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Hồi Ức về Trận Chiến Tết Mậu Thân sau đây là chuyện khi tác giả còn là một sinh viên.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Nhạc sĩ Cung Tiến