Tác giả: Nguyễn Văn
Bài số 4138-14-29548vb3021114Với cách viết tinh tế, Nguyễn Văn đã nhận giải Vinh Danh Tác Giả
Viết Về Nước Mỹ 2012. Ông sinh năm 1965, quê ở Phú Yên; Vượt biên năm
1988, hiện sống cùng gia đình tại Chicago.* * *
Xin giới thiệu, tôi tên là Thừa. Tất nhiên, tôi không tự chọn tên cho
mình. Đây là tên do ba tôi đặt. Ở đời, cái gì không cần thiết, người
ta gọi là thừa. Khi đến Mỹ, buồn cảnh xấc bấc xang bang, chữ nghĩa
cũng chán cảnh mang râu đội mũ, tôi được gọi là Thua. Từ ấy, tôi đâm
ra không thích tên mình.
Khi có trí khôn hiểu ra được mọi việc, chưa kịp thắc mắc tên mình
với ba tôi thì ông đã chết. Ông chết vì lỡ sinh ra làm đàn ông trong
thời chiến. Chế độ ngày ấy gọi ông là tử sĩ. Người ta phát cho mẹ
tôi tấm bằng Tổ Quốc Ghi Ơn. Mẹ nói, nếu nhà có tiền đút lót, ba
tôi đã không phải đi lính. Và bà cứ nhất định, ba tôi chết vì nghèo.
Tôi tin, ông không đơn độc, số người chết vì nghèo trên trái đất này
nhiều không kể xiết.
Như bất cứ đứa trẻ nào sinh ra trong chiến tranh, ký ức tôi gắn liền
với những lần chạy nạn. Quê tôi nằm ở vùng xôi đậu. Mỗi khi nghe
tiếng súng hai phía bắn nhau, mẹ lại đặt tôi ngồi vào một chiếc
thúng. Chiếc còn lại chứa lỉnh khỉnh bao nhiêu là thứ, từ thức ăn,
gạo muối đến quần áo. Mẹ gánh tất cả mọi thứ lên vai, theo dân làng
tản cư ra đồng. Hồi bé, tôi mơ lớn lên sẽ đi lính. Tôi nghĩ, nếu có
súng trong tay sẽ không bị ai ăn hiếp. Lũ trẻ con chúng tôi ngày ấy
thường chặt nhánh cây gòn đẽo làm súng, chia phe đánh nhau. Lúc đầu
chúng tôi đánh bằng miệng, khi bất phân thắng bại mới dùng đến tay
chân. Ngày nào cũng đánh nhau đến u đầu, bướu trán. Chúng tôi không
hiểu tại sao lại thích đánh như thế. Mãi sau này tôi mới biết người
lớn cũng thích đánh nhau. Các nhà tâm lý học đã nhầm khi bảo ý
thích bạo lực, trò chơi động tay động chân là sản phẩm của kẻ vị
thành niên chưa trưởng thành. Có thể chúng tôi mang gen di truyền của
tổ tông, sinh ra trong một đất nước có lịch sử mấy ngàn năm chuyên
đánh nhau.
Lúc Sài Gòn sắp sụp đổ, nghe tin mấy ông lớn lên máy bay dông ra nước
ngoài, mẹ chửi đổng: Quân khốn kiếp! Từ đó, mẹ cũng thôi bảo tôi
lớn lên nhớ trả thù cha. Năm ấy tôi tròn mười tuổi. Mẹ làm bà góa,
khó nhọc nuôi tôi lớn. Hồi nhỏ, mẹ chỉ học biết chữ thì ở nhà làm
ruộng. Mẹ xem mọi thứ sách vở đều thiêng liêng nên khuyên tôi học. Học
để thoát nghèo, mẹ nói thế. Có nhiều người cả đời chưa từng đọc
hết một quyển sách, nhưng rất giàu. Mãi sau này tôi mới biết, họ
giàu vì cướp của người khác, không phải vì học.
Tôi bỏ quê ra đi lúc trưởng thành. Tôi sống ở một chỗ, gọi là thành
phố, nơi con người thích chui rúc vào những dãy nhà cao tầng, với
các tiện nghi sinh hoạt vây quanh. Cuộc sống nơi đô hội mê hoặc tôi
cũng ngang bằng sự quyến rũ của các cô gái. Ở đó, tôi bỏ công học
hỏi đủ thứ, từ cách đi đứng nói năng tới việc cầm nĩa sao cho đúng
khi được mời tham dự các bữa tiệc. Tôi tập ăn bánh mì kẹp thay cơm.
Như người ta, tôi thích tranh Vincent Van Gogh và cũng hỏi tại sao nàng
Mona Lisa lại mỉm cười. Tôi không muốn làm bạn những cô gái cùng màu
da tiếng nói với mình, chỉ thích mấy cô nàng tóc vàng. Và tôi
thường thất tình triền miên. Tôi bỏ ngoài tai lời khuyên của mẹ, mặc
kệ cái gọi là giữ gìn nòi giống nguồn cội. Để phủ nhận và gột
rửa xuất thân quê mùa của mình, tôi nhất định con người không sinh ra
từ loài khỉ. Tôi chẳng coi thuyết tiến hóa ra gì. Có lần tôi đi nghe
một vị tự xưng là Phật sống, rao giảng về thế giới sau cõi chết.
Bà nói tự tin đến nỗi, ai cũng tưởng bà vừa từ nơi ấy bước ra. Con
người cứ thích lừa dối nhau, và cũng mãi tự dối lừa mình. Căn
phòng chật cứng người. Tôi có cảm giác mọi người đang tự thôi miên
mình, lòng trầm xuống như thể chuẩn bị thoát xác. Riêng tôi lại
thích nhìn quanh quẩn. Những chiếc váy của các cô gái bao giờ cũng
khiến tôi bận tâm hơn những đề tài có tính hàn lâm cao xa. Đã có
thời tôi nhầm lẫn, cứ tưởng cái đẹp và cái thiện là một.
Mỗi sáng, mẹ nhìn tôi lo lắng. Gần đây mắt mẹ mờ dần. Mẹ bắt đầu
có thói quen muốn tôi ngồi lại một bên để bà rờ mặt. Mẹ nghĩ, mỗi
ngày tôi thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Biết đâu, vào một lúc nào
đó, tôi sẽ không còn là con của bà nữa. Không hiểu sao càng lúc tôi
càng thấy mệt mỏi, đầu óc hoang mang cứ như người đi lạc. Có lẽ, tôi
đã nhiễm quá nhiều, thứ người ta thường gọi là những thói hư tật
xấu mặt trái của thành thị.
Ngày nào mẹ cũng mở tivi xem tin tức Việt Nam. Bây giờ là mùa đông.
Quê mình đang vào mùa mưa. Chắc nước đã ngập hết cánh đồng làng. Cây
lúa sẽ chết. Nhà nông rồi sống khổ. Nói chán, mẹ thở dài một
mình. Nỗi ám ảnh về những ngày tháng cơ cực xa xưa cứ bám lấy bà.
Bữa cơm nào, mẹ cũng nhắc tôi lo kiếm vợ Việt Nam. Mày không biết
chọc gái à, thằng dài lưng? Hỏi tôi xong, bà lại chép miệng. Không trách
được. Lũ con gái bây giờ, Tây cũng không mà Ta cũng không, người ngợm
cứ nửa xanh nửa đỏ như đười ươi! Tôi vừa nghe bà, vừa nhai bánh mì.
Lần nào cũng thế, mẹ chỉ có mỗi một chuyện để ca cẩm. Sao mày
không chịu ăn cơm, cứ đi nhai mãi cái thứ bánh nhạt thếch ấy, hả
trời! Tôi nghĩ mẹ sắp lẩn thẩn. Bà không gọi tôi bằng con nữa, chỉ
kêu mày. Có lẽ tôi sống hèn. Tôi cứ mãi bận rộn theo chuyện cơm áo
đời thường, cũng không dám trả các hóa đơn trễ đến một lần.
Rồi mẹ kể chuyện xưa. Một chiều, mẹ ngồi chải tóc bên thềm nhà,
thấy ba tôi đi ngang qua. Ba mày ba trợn lắm. Mới biết nhau, ổng đã
đòi hôn tao. Không hiểu sao, tao lại thích để cho ổng ôm như vậy. Ba tháng
sau, không trầu cau cưới hỏi gì, tao bỏ nhà trốn theo ổng. Mắt mẹ
long lanh sau câu nói. Các nếp nhăn trên mặt bà như giãn ra. Đột nhiên
tôi thấy mẹ trẻ lại. Tôi nhìn bà, quên luôn cả nhai cơm.
Tôi ngồi, nhớ về một vùng quê xa vời, nơi có ngôi làng mái tôn lụp
xụp nằm bên cạnh một đầm nước tên Ô Loan. Tôi không biết tên đầm có
tự bao giờ, và do ai đặt cho. Người ta bảo, vào mùa hè đứng trên đèo
Quán Cau nhìn xuống, đầm Ô Loan nằm trải mình bình lặng trông giống
như đôi cánh chim loan đang thong thả bay. Tôi nghi ngờ đây là sản phẩm
của mấy tay nhà thơ. Ở xứ tôi, tỉ lệ nhà thơ tính trên đầu người
nhiều nhất thế giới. Mà không riêng gì cái đầm, ở đó địa danh nào
cũng có tên gọi rất đẹp, chỉ có con người là cứ mãi cực khổ,
nhếch nhác. Hồi ấy, tôi chỉ thích mùa mưa để được dầm mình trong
nước lũ. Có năm, nước từ sông Cái và các con sông nhỏ đổ về, làm
ngập trắng cả một vùng. Cả đầm nước yên bình bỗng trở nên hung dữ
lạ thường. Cảnh người chết trôi, nhà cửa hư hại, mùa màng thất bát
cứ xảy ra vài năm một lần. Cũng chính nơi ấy, tôi đã bỏ lại mối
tình học trò của mình. Tôi không được như ba tôi, chỉ mới nắm bàn tay
người ta. Nhưng rồi em cũng bỏ tôi đi lấy chồng.
Mẹ bảo khi mẹ mất phải hỏa thiêu, đem tro về rải lên mặt đầm xưa.
Ruộng đất bị chính quyền lấy hết, không còn chỗ để chôn. Nói xong,
mẹ ngước đôi mắt mờ đục nhìn ra khung cửa. Cả thành phố huyên náo
ngoài kia cũng đột nhiên trống vắng như một khung cảnh chết. Mẹ vẫn
dõi mắt tìm đâu đó. Ánh nhìn của mẹ xa xôi như đắm chìm vào một
khoảng trời rất riêng nào khác.
Và cứ thế, mẹ ngồi chờ đêm xuống.
Nguyễn Văn
Cảm ơn các vị đã để lại lời bình cho bài viết của mình.
Chào chị Mimosa. Văn đã ráng gồng lắm cũng chỉ được chừng ấy, nhưng chị lại muốn dài thêm. Thật khổ cho thân em. Chúc chị sức khỏe, tiếp tục đam mê công việc viết lách của mình. Trân trọng.
Văn.
Bạn viết hay quá, nhưng tôi bị hụt hẩng vì đang đọc thì bài viết bị chấm dứt một cách bất ngờ.Rất mong được đọc tiếp chuyện đời thường của bạn!
Mimosa Phương Vinh