Tác giả: Triều Phong (TPN)
Bài số 4122-14-29522vb6012414Tác giả tên thật Trần Phương Ngôn, cho biết ông là thuyền nhân trên
chiếc tàu vào loại lớn nhất, chở 246 người, con số đông nhất trong
một chuyến vượt biển. Tác giả cũng đã sống ở trại tỵ nạn PFAC của
Phi Luật Tân gần mười một năm và chỉ mới định cư tại Hoa Kỳ từ 2004.
Hiện hành nghề Nail tại tiểu bang South Carolina và cũng đang theo học
ở trường Trident Technical College. Bài viết mới nhất của Triều Phong
là chuyện bàn thờ ngày giáp Tết.* * *
Từ sau ngày 30 tháng 04 năm 1975 khi cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam
rồi thì đời sống của dân chúng thê thảm lắm. Hầu như gia đình nào
cũng có ông bà, cha mẹ, anh chị em, đi tù cả. Họ hàng chú bác nhà
tôi có năm sáu người ở tù từ Nam ra tới Bắc nên luôn bị chính quyền
địa phương để ý bởi dòng họ có nhiều “sĩ quan Ngụy đang đi cải
tạo.” Tài sản của dân thì chính quyền tìm cách tịch thu hết. Nhà
nào cũng xơ xác, đói nghèo tràn lan do chính phủ và người dân miền
Bắc mang vào. Đi đâu cũng thấy nón cối, dép râu, xe đạp cọc cạch. Ở
cơ quan, xí nghiệp, công nhân lo làm việc thì ít nhưng lo “chạy mánh,”
giành nhu yếu phẩm thì nhiều. Nơi trường học, nhiều hôm học trò ngồi
lơ láo, đợi thầy cô đi nhận phần thịt hoặc cá đang chia ở phía văn
phòng ban đời sống cả giờ đồng hồ vẫn chưa trở lại dạy …
Trong cái không khí u ám ấy năm 1978 sau khi tốt nghiệp cấp ba xong, ba
tôi thấy tình thế chắc là không ổn do chính sách đàn áp, phân biệt
đối xữ đối với dân chúng miền Nam nên ông quyết định cho tôi vượt
biên. Nhưng tôi đi không thành và bị bắt. Tôi vốn nhỏ con, nên trong tù
tôi khai tuổi mười ba dù đã mười tám do đó mỗi sáng tôi được cho ra
sân nhổ cỏ. Lơi dụng cơ hội này một hôm tôi trốn mất! Về Saigon dĩ
nhiên là tôi không dám trờ lại địa phương nữa mà trốn nơi nhà bà nội
tôi. Từ một học sinh mới lớn, thơ ngây, chả biết gì mùi đời bấy giờ
tôi đã trở thành một tội phạm trốn chui trốn nhủi, sống bất hợp
pháp, cuộc sống vô cùng khó khăn, lo sợ đủ thứ. Đúng là sống với
Việt Cộng mà không hộ khẩu thì đời kể như hậu khổ rồi!
Nhà bà nội tôi nằm kế nhà từ đường của dòng họ. Bà cố tôi ngày
xưa ở đây và nghe kể lại là bà chuyên sống về nghề làm bún. Khi làm
ăn khấm khá bà mở lò bún nên thiên hạ gọi bà cố tôi là bà chủ lò
bún. Lúc giàu có bà mua nguyên miếng đất to gần cả mẫu rồi chia đều
cho mười người con nên gia đình con cháu sống gần nhau là thế. Đó là
lý do mà ba tôi đưa tôi về đây trốn cho an toàn hơn. Lúc ấy đất rộng
người thưa, tôi ngày tối cứ quanh quẩn ngoài vườn. Sân vườn thì to
lớn với đủ loại cây trái như xoài Thanh Ca, chuối sứ, chuối già,
mận, ổi, mãng cầu (trái na), hồng quân…mặc sức cho tôi leo trèo.
Tết năm 1979, ba tôi đem bộ lư trên bàn thờ ra sau hè rồi hai cha con hì
hục chùi. Tuy không ăn tết gì rình rang nhưng sẳn tiện năm nay có tôi
nên ba tôi muốn tôi phụ chùi bộ lư với ông bởi lẽ ba năm rồi đâu có ai
còn lòng dạ nào mà lo tết với nhất nên bộ lư bị oxide đồng, đen xì
xì. Lúc đó đâu còn có dầu chùi bóng nên hai cha con tôi hái khế để
thay thế vì trong trái khế có acid acetic (CH3COOH) dùng để làm nhả
oxide ra được. Lúc tôi trèo tuốt lên ngọn cây thì ông đứng bên dưới
nhắc nhở:
- Thôi tới đó được rồi đừng leo cao nữa nha con. Người ta nói “nhất
hóc xương gà, nhì sa cành khế” đó mày. Té cây khế là nguy hiểm lắm
ấy!
Rồi ngoài khế ra ông còn lấy cát đất trộn với nước cho sền sệt và
dùng nùi giẻ cũ chùi thêm. Hàng xóm ai nhìn thấy cũng cười cách ông
làm. Tuy vậy cuối cùng là sau cả ngày bận rộn, chúng tôi đã có bộ
lư sáng láng nhưng nếu nói về độ bóng thì nó không được bóng lắm.
Dù sao như vậy là cũng tốt lắm rồi vì thời buổi ấy chỉ làm được
tới đó thôi bởi cơm còn không có ăn thì lấy đâu ra dầu chùi bóng của
tây?
Hôm sau sẳn trớn và hứng chí hay sao chẳng biết, ông đi sang nhà bà
cố tôi và nói với người đang trông coi nhà thờ lúc này là chị em cô
cậu với ông rằng để ông mang bộ lư trên bàn thờ về đánh bóng luôn.
Dĩ nhiên là cô tôi hưởng ứng hết mình nếu ông có lòng bởi cũng như
bộ lư bên nhà bà nội tôi bộ lư này cũng đen thui vì từ ngày các bác
tôi bị đưa ra Bắc “cải tạo” thì đâu còn ai chăm sóc nó. Khi phụ ba tôi
bưng bộ lư xuống, tôi mới chợt nhận thấy bộ lư này khác với bộ lư
nhà nội tôi vì nó có hai nhánh hai bên với rất nhiều mắt như mắt tre
mà thưở nhỏ dù nhiều lần sang đây chạy loanh quanh dưới bàn thờ tôi
vẫn chẳng bao giờ để ý đến. Phía trên nắp nó cũng có trang điểm
một khúc to hơn nằm ngang với nhiều mắt. Nhìn thấy ánh mắt tò mò
của tôi ông giải thích:
- Bộ lư này gọi là lư tre vì nó có nhiều mắt như mắt tre. Bộ lư này
quý hơn bộ lư bên nhà mình. Ngày xưa nghe nói bà cố con mua đắt lắm.
Còn bộ lư bên nhà là lư trái đào vì nó có hai trái đào bên thân lư.
Lư trái đào thì rất xoàng và rẻ tiền!
- À, ra là vậy. Tôi vừa gật gù vừa ngắm nghiá bộ lư tre khá nặng
đang cầm trên tay.
Nếu lư trái đào cha con tôi chỉ chùi một ngày thì bộ lư tre chúng tôi
phải mất đến ba ngày vì nhánh tre vừa nhỏ lại vừa quằn quèo, nhiều
mắt, khó cầm, khó chùi. Rồi sau khi làm xong thì hai bàn tay của tôi
và ba tôi bị trầy xước chảy máu nhiều nơi do bị cắt bởi các mắt
tre.
Tết năm đó khi cả dòng họ về thắp nhang cho bà cố tôi, thấy bộ lư
tre sạch đẹp, bóng láng, ai ai cũng tắm tắc khen ngợi hai cha con tôi
khiến ông nức lòng. Ngôi nhà thờ bà cố tôi gồm ba gian, hai chái, mái
ngói âm dương, với mấy trụ xi măng tròn to cở một người ôm ở trước
hàng ba mà bên ngoài trông vào người ta ngỡ đó là một ngôi chùa nhỏ
khiến cho nhà từ đường có vẻ trang nghiêm cổ kính. Bên trong, nền nhà
được lót bằng gạch Tàu. Ngay gian giữa có hai cột quá giang bằng gổ
mun vuông, đen bóng, dùng để đỡ lấy mái nhà và trên hai cây cột này
cũng có hai tấm gổ bằng gỏ mun được treo từ trên trần xuống tới gần
mặt nền với hai câu đối viết bằng chữ Hán có mạ vàng nhủ mà tôi
không hiểu nghĩa là gi. Ở vách bên phải từ ngoài bước vào có một
bức tranh lụa thật to, vẽ bằng màu nước với hình Long Hổ Tranh Châu
được lồng trong một cái khung cầu kỳ, hoa văn tao nhã mà cạnh viền
từ trên xuống dưới cũng có hai hàng chữ Hán nhỏ hai bên.
Giữa nhà là bàn thờ gõ mun đen với bức vẽ chân dung to lớn của bà
cố tôi đang ngồi trên ghế trong chiếc áo dài nhung xanh dương đậm. nom
thật uy nghi. Nhìn khói bay nghi ngút, lượn lờ quanh bộ lư tre, làm mờ
nhân ảnh của bà cố tôi khiến cho gương mặt của bà như từ chốn sa mù
nào dội lại. Mùi hương thoang thoảng nơi bát nhang đang đốt tạo cho
khung cảnh nét trầm mặc xa xăm, thiêng liêng huyền bí của cõi vô hình
khiến lòng tôi bồi hồi mỗi lúc trông lên bàn thờ. Từ đó, hàng năm
ngoài việc chùi bộ lư trái đào tôi còn lãnh thêm phần chùi bộ lư tre
trên bàn thờ của bà cố tôi nữa.
Thời kỳ này như bao gia đình khác, các cô bác bên nhà bà cố tôi, nhà
tôi, đều phải mang bàn ghế tủ giường đem bán để lấy tiền mua cơm gạo
nuôi con cái, sống lây lất qua ngày. Và bộ lư tre là một món đồ mà
những thương lái, những người mua đồ cũ rất thích. Họ năn nỉ mãi
nhưng gia đình tôi nhất định không bán bởi nó là một trong các kỷ
vật sau cùng của bà cố tôi nhờ vậy mà chúng tôi mới còn giữ được
nó cho đến bây giờ. Lúc ấy những gia đình khá giả còn có tiền đàn
đúm nhau năm bảy người ra Bắc thăm thân nhân hay trèo đèo lội suối tới
tận chốn thâm sơn cùng cốc để gặp người thân chứ còn gia đình tôi
nghèo quá phải tiện tặn mọi thứ để thỉnh thoảng gửi quà ra miền
Bắc qua đường bưu điện khi các bác tôi gửi phiếu thăm nuôi về nên nhà
rất là đói khổ. Đây là giai đoạn cả miền Nam rơi vào tuyệt vọng bởi
quá khứ vàng son đã lùi sâu vào dĩ vãng để lại một thực tại bi
đát phủ phàng và tương lai là một vùng biển cả tối đen, người ta như
các con thuyền nhỏ trôi bấp bênh trong mênh mông vô định. Suốt thời gian
ảm đạm này, tuy không nói ra nhưng mọi người đều đọc được trong ý
nghĩa của nhau về nỗi lo sợ sẽ nhận được hung tin chết chóc của
những người tù trong một ngày không xa. Tuy nhiên may mắn hơn một số
gia đình khác là nhà tôi không có ai bỏ xác trong tù cả. Các chú
bác tôi lần lượt trở về, người “học tập” ít nhất là gần ba năm,
người lâu nhất là mười hai năm!
Khi chương trình HO được ký kết giữa hai chính phủ Mỹ và Việt Nam
xong, một số chú bác tôi hội đủ điều kiện đã lên đường định cư.
Hiện mọi người đang sống rải rác trên nước Mỹ. Sau gần hai mươi năm
cố gắng làm việc cộng với năm tháng tù tội thì bây giờ tất cả đã
về hưu vì già yếu và bệnh tật.
…
Tối hôm qua tôi gọi điện thoại về Việt Nam thăm nhà, sau một hồi
chuyện vãn thì cô tôi trở giọng buồn buồn cho hay là bộ lư mắt tre
của bà cố tôi vừa bị ăn trộm lấy mất cách đây ba bốn bữa rồi. Gần
Tết thì chuyện trộm cắp ở bên nhà xảy ra thường xuyên lắm và như cô
tôi nói thì hiện nay giá trị của một bộ lư tre chỉ chừng vài ba
triệu đồng tiền Việt Nam. Số tiền đó so với cuộc sống bây giờ không
phải là món tiền to tát nhưng đối với gia đình tôi thì đó là một
mất mát lớn lao và vô giá bởi vì nó là của gia bảo do bà cố tôi
để lại, là kỷ vật lưu dấu của gia phả về tình thương của bà đối
với con cháu, người đã có công tạo dựng cho con cháu có được một cơ
ngơi yên ấm, một mảnh đất dung thân nên trong lúc khốn khổ nhất mọi
người vẫn cố gìn giữ suốt một thời gian dài.
Im lặng hồi lâu rồi tôi nghe tiếng cô tôi thở dài trong điện thoại. Tôi
biết cô buồn lắm trước mất mát này và chắc chắn mọi người trong
dòng họ cũng sẽ buồn như cô tôi bây giờ khi hay tin dữ. Riêng tôi cũng
thẫn thờ xen lẫn tiếc nuối. Hình ảnh tôi lui cui ngồi chùi bộ lư mắt
tre mỗi độ xuân về bên hiên nhà hơn ba mươi năm về trước vẫn còn in
đậm trong tâm khảm. Lòng ngổn ngang như tơ vò, tôi chẳng biết nói sao
hơn là dùng cái nguyên lý có không của nhà Phật để an ủi cô tôi. Tuy
vậy tôi vẫn không tránh khỏi bâng khuâng, và tự nhủ lấy lòng “xem như của
đi thay người thôi!” Vì dù sao vật gì mất đi cũng còn có thể tìm
lại được chứ như con người mất đi thì lấy gì thay thế đây? Ý nghĩ
ấy làm tôi liên tưởng tới sự ra đi của nhạc sĩ Huỳnh Anh, nhạc sĩ
Việt Dzũng, nhà báo Cao Sơn và nữ danh ca Hà Thanh vừa qua. Buổi nói
chuyện với cô tôi cuối cùng rồi cũng chấm dứt trong bầu không khí
khá nặng nề.
Để điện thoại trở lại bàn xong tôi ra sofa ngồi mà đầu óc vẫn còn
nghĩ ngợi miên man. Dẫu biết là “sinh lão bịnh tử, thành trụ hoại
không” thì mọi sự vật trong cuộc đỡi này không có gì là vĩnh cửu
nhưng trong những ngày vừa rồi nhiều văn nghệ sĩ hải ngoại đột ngột
giả từ cõi tạm này khiến cho người tôi bần thần, tiếc nuối và cộng
đồng người Việt khắp nơi thì bàng hoàng đau xót, buồn nhiều hơn vui.
Mùa đông năm nay vốn đã trắng vì tuyết tràn ngập, phủ đầy khắp nơi,
giờ lại thêm bạc thếch vì cơn lạnh kỷ lục. Suốt cả tháng trời qua
tâm tư tôi cứ bứt rứt, khó chịu mà tôi không thể diễn tả được vì sao
trước các mất mát trên. Tôi chưa gặp nhạc sĩ Huỳnh Anh bao giờ. Tôi
chỉ găp Việt Dzũng một lần khi anh sang trại tị nạn Palawan và có
một kỷ niêm nhỏ với anh thôi. Tôi cũng không biết nhà báo Cao Sơn vì
khi ông tới tìm hiểu tình hình lập Làng Việt Nam bên trại tị nạn năm
1996 hoặc 1997 gì đó thì tôi đã rời trại đi Manila rồi. Nữ danh ca Hà
Thanh thì tôi lại càng không có dịp hạnh ngộ nào nhưng tại sao tôi
lại xốn xang trong lòng khi nghe tin họ từ trần? Tôi hiểu rằng dù tôi
chưa gặp hay gặp họ không lâu nhưng các tác phẩm hay giọng ca của họ
đã quen thuộc, mến yêu với tôi từ những ngày tôi còn rất nhỏ. Đó là
lý do tôi buồn và cảm giác tổn thất này khiến tôi hụt hẫng, tạo nên
một lỗ trống to lớn trong tôi.
Sáng nay cơn lạnh lại xuống cực thấp làm vạn vật bên ngoài chết
cứng. Từ trong cửa sổ đứng nhìn ra con đường trước mặt, cảnh vật
trắng toát một màu tang! Tận thâm tâm của niềm xúc cảm vô biên ấy,
ngắm mọi thứ im lìm rất lâu tôi chợt nhận thức được cái vô thường
của kiếp người. Vì có thể nó bình thường với những người khác
nhưng lại hoàn toàn mới đối với tôi bởi cái căn nguyên, cái duyên
nghiệp, cái giác tánh nguyên sơ và sau cùng là cái trình độ “ngộ”
của mỗi người mỗi khác và không ai giống ai. Có sinh thì có tử! Tử
để về một cõi khác rồi trở lại kiếp người nếu sống có đức độ ở
kiếp này. Cái cõi khác đó chính là cái cõi Tịnh Độ trong thuyết
luân hồi của nhà Phật vậy!
“Tâm thức chợt giác ngộ” khiến tôi thanh thản hơn, như người vừa cất được
gánh nặng khỏi đôi vai và thấy lòng nhẹ tênh. Tôi hít một hơi thật
dài đầy khoan khoái, đầu óc tỉnh táo hẳn ra khi thấu triệt cái lý
lẽ của “sinh, trụ, hoại, diệt” rồi thầm cầu nguyện cho những người
vừa khuất sớm về cõi Phật, nước Chúa. Nắng lên cao, xuyên qua các
nhánh cây trụi lá, chiếu lên đống tuyết cao trước nhà dọi ánh dương
quang lấp lánh. Hôm nay tuyết sẽ tan, ngày mai tuyết lại đổ xuống.
Tuyết tan rồi tuyết lại tới. Đông sẽ tàn cho xuân qua trong sự tuần
hoàn của vũ trụ, cho một khởi điểm bắt đầu trong kiếp luân hồi tái
sinh có không, không có!
Miami Township, ngày 06 tháng 01 năm 2014
Triều Phong (TPN)