Hôm nay,  

Khoai Lang

01/12/201300:00:00(Xem: 36554)
Người viết: Nguyễn Trần Diệu Hương
Bài số 4074-14-29474vb8120113


Nguyễn Trần Diệu Hương là một trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ kỳ cựu, được bạn đọc quí mến. Tham dự từ năm đầu, với nhiều bài viết đặc biệt, cô đã nhận giải Danh Dự năm 2001, và sau đó là giải vinh danh tác giả năm 2005 với bài viết "Còn Đó Ngậm Ngùi."

* * *

Mùa Thanksgiving về với người dân Mỹ từ đầu tháng 11 với những thức ăn truyền thống ở các ngôi chợ. Trong đó có những bao khoai lang đỏ tươi tốt mời gọi người mua luôn mang tâm tưởng chúng tôi về rất gần với cả hai quê hương.

Quê hương thứ hai có tiệc Thanksgiving đoàn tụ gia đình có nhiều món ăn truyền thống để nhớ lịch sử, từ năm 1621, khi những thuyền nhân đầu tiên đến Mỹ làm đại tiệc tạ ơn trời đất, cảm ơn thổ dân, (đặc biệt là anh chàng Squanto đầu đội một dãi khăn có gắn một chiếc lông gà Tây đã nhiệt tình chỉ dẫn người Pilgrim trồng trọt, canh tác trên vùng đất mới.) Khởi đầu từ đó, những lễ tạ ơn sau này vẫn thường có các món ăn từ bí ngô, từ khoai tây, khoai lang cạnh món gà tây.

Tuy nhiên người ta chú trọng đến món ăn truyển thống của ngày lễ tạ ơn bí đỏ, khoai lang,và khoai tây, các loại lương thực bội thu vào mỗi mủa thu ở Mỹ, hơn là thịt gà Tây vì ngay từ ban đầu lễ tạ ơn phát xuất từ ngành trồng trọt chứ không từ ngành chăn nuôi.

Lần đầu tiên ngồi vào tiệc Thanksgiving, là người tỵ nạn còn còn phảng phất nắng gió của đại dương và của trại tỵ nạn, trước một bàn tiệc ê hề thức ăn, chúng tôi chỉ thích ăn sweet potatoes pie vì khoai lang gắn liền với một hoài niệm tuổi thơ buồn nhiều hơn vui, sau năm 1975 ở quê nhà. Lúc đó chúng tôi chưa quen với "thức ăn bơ sữa" béo ngậy, thừa mứa chất dinh dưỡng, nên cứ nhẩn nha "khều dao nĩa" vào các món chính, đợi món bánh pie làm bằng khoai lang mài ra trộn với sữa, rồi nướng lên. Món ăn khác xa với khoai nướng, khoai luộc ở Việt Nam nhưng mùi vị thì vẫn là mùi khoai lang quen thuộc mà thế hệ chúng tôi đã phải ăn thay cơm cả một ấu thời và thiếu thời ở quê nhà.

Cái bánh pie màu vàng nâu làm từ những củ khoai lang màu vàng cam to ươm mật -ngọt khác xa với những củ khoai lang đỏ, khoai lang trắng thon dài đôi khi bị sùng ở quê nhà- nhưng cũng mang về cả một thời gian gian khó sau chiến tranh, rõ mồn một trong đầu chúng tôi như chuyện mới xảy ra hôm qua.


Đó là thời cơm thường phải độn khoai lang khô hay bắp hột, nấu bằng than củi, nếu không biết cời lửa đúng lúc, cơm sẽ "trên sống dưới khê tứ bề nhão nhẹt", gần giống cháo heo. Do vậy thay vì dùng câu ngạn ngữ "chán như cơm nếp nát", thế hệ chúng tôi đổi thành "chán như cơm độn khoai".

Thời đó, hạnh phúc tuổi thơ ở Việt Nam không phải là Xbox, là Tablet... như các em nhỏ ở Mỹ bây giờ mà hạnh phúc của chúng tôi chỉ đơn giản là có được một củ khoai lang, hay tuyệt vời hơn là khoai tím dương ngọc, ngọt bùi, không bị sùng, không bị đắng, ăn sáng thay vì phải vác cái bụng rỗng đi học, mà đầu óc cứ tơ tưởng đến mấy củ khoai lang luộc ngọt bùi.

Hồi ức tuổi thơ đó hằn sâu trong tâm tưởng nên mãi đến bây giờ, tuần nào đi chợ, chúng tôi cũng mua vài củ khoai lang, khi thì khoai đỏ, khi thì khoai trắng về để lâu lâu bỏ vô microwave một củ, tìm lại hạnh phúc tuổi thơ, dù muộn màng nhưng mang về được cả một thời mới lớn vô tư đẹp nhất đời người ở quê nhà.

Khoai tím thì chỉ tìm được ở những chợ lộ thiên mỗi thứ bảy nông dân mang lên thành phố bán những rau, trái, củ, quả họ mới hái từ nông trại ngày hôm trước. Khoai lang tím ngọt hơn, chắc hơn, gắn với một cái tên mỹ miều là "khoai dương ngọc", và buồn thay cũng gắn với đôi mắt to tròn ngơ ngác của cô bạn học ngày xưa, sáng đi học chiều đi bán khoai lang cuối thập niên 70s. Rỗ hàng của bạn cũng nhỏ nhoi, tội nghiệp như bạn, chỉ có mỗi một mặt hàng khoai lang, nhưng đủ màu: vàng, đỏ, trắng, tím. Cả lớp khi nào có được vài đồng tiền lẽ hiếm hoi, quý báu đều dồn hết mua khoai trước là ủng hộ bạn, sau là để trám vào cái bao tử lúc nào cũng lưng lửng của mình.

Ký ức buồn bã có củ khoai lang, có hình bóng quê nhà nên chúng tôi ăn khoai lang hàng tuần chứ không phải chỉ ăn như một món tráng miệng truyền thống trong tiệc Thanksgiving vào cuối tháng 11 hàng năm.

Dù là bánh khoai lang nướng dịp lễ tạ ơn mùa thu ở Mỹ hay những củ khoai lang luộc bốc khói mang ra từ microwave vẫn mang chúng tôi về với quê nhà xa ngàn dặm nhưng luôn luôn gần gũi, thân thương trong tâm tưởng.

Thanksgiving 2013

Nguyễn Trần Diệu Hương

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,065,653
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY đăng 2 kỳ.Tiếp theo và hết.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY được ghi “Hè 2019, kỷ niệm 30 năm tìm được “cái xương sườn cụt của tôi”. Bài đăng 2 kỳ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ sáu của bà kể về mùa lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, Bà tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài viết thứ 7 của bà được viết trong ngày lễ Phật Đản.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Lần đầu góp bài dự Viết Về Nước Mỹ, ông đã liên tiếp nhận các Giải Biệt VVNM 2017; giải Danh Dự VVNM 2018. Sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada từ năm 1981. Mong bà tiếp tục viết.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bai mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết. (Ấn bản chủ nhật có sự sai sót. Xin đăng lại phần đúng và trân trọng cáo lỗi.)
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19. Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19.
Nhạc sĩ Cung Tiến