Hôm nay,  

Xóm Nhà Sàn

03/09/201100:00:00(Xem: 215534)
Xóm Nhà Sàn

Tác giả: Đoàn Thị
Bài số: 3345-12-2855vb7090311

Tác giả cho biết cô hiện làm việc trong một văn phòng thiết kế công chánh tại nước Pháp. Đoàn Thị chỉ mới tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010, nhưng cho thấy một sức viết mạnh mẽ, với những bài viết đề cập những đề tài rất Mỹ, dù tác giả là cư dân Âu Châu. Viết Về Nước Mỹ 2011, Đoàn Thị đã bay từ Paris sang dự họp mặt để nhận giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Bài mới là chuyện Cali, viết bởi người đến từ Paris.

***

Tôi thích xóm nhà sàn, Cali làm gì có sông hoặc lạch như con kênh bên cầu Trương Minh Giảng ở Sàigòn hồi trước mà có nhà sàn, đó là xóm nhà Mobilhome, nhà được gác trên mấy cục xi măng nằm lơ lửng cách mặt đất gần một mét, không sợ lụt, đó là cách gọi của riêng tôi.
Từ lúc phải gồng mình sống với cán cộng, tôi và mấy đứa bạn thân đã cho ra đời một số từ ngữ “xài riêng mình ên”, bộ đội chúng tôi cho đầu thai thành “vịt đẹt” vì dáng đi ì ạch chẳng hiên ngang như lính VNCH tí nào, ngắn gọn hơn thì gọi “bờ đờ”, công an, chủ tịch phường, “cán ngố”, vừa dốt vừa bốc phét chuyên hà hiếp dân ngụy. Mấy cán còn có bí danh như hai Đếm, ba Thà ... nghe cục mịch làm sao, khi ngồi vào bàn họp với chúng tôi, nhân viên gốc ngụy, dân Sàigòn cũ, có cán ngu ngơ hỏi, các đồng chí không có bí danh sao.
Tôi lắc đầu thất kinh hồn viá, tự nhiên bị gọi là đồng chí, dân ngụy làm sao đồng chí hướng với họ được, lại còn hỏi bí danh nữa, mấy cái bí danh đó để bịp ai đây. 
Tuy sống trên xứ người hơn hai thập niên, nhưng đi trong đám đông tôi thích nói tiếng mẹ đẻ mà không cần vay mượn tiếng địa phương. Đã nói chuyện riêng, rất riêng tư của dân Mít, lại dùng từ, Welfare, financial aid, food stamp, người nghe ít nhiều nghĩ mình đang xoè tay nhận trợ cấp xã hội, nói tới INS họ nghĩ ngay là mình đang kéo cả dòng họ sang đây hưởng sái phúc lợi của họ, chứ mấy ai hiểu dân ta qua đây cày đến bạc đầu và cũng đóng góp vào quỹ phúc lợi xã hội như ai. Đành rằng đôi khi cũng khó tìm được một từ ngữ tương đương với ngôn ngữ mình đang dùng, vì VN không có quỹ trợ cấp người không có thu nhập, tiền thất nghiệp…, nhưng nếu chúng ta không tiếp tục nói tiếng mẹ đẻ làm sao lưu truyền cho con cháu, Tiếng Việt còn Người Việt còn hiện hữu.

*
Trở lại chuyện nhà sàn, xóm này hao hao giống cư xá Chu Mạnh Trinh, cư xá Lữ Gia… ngày trước ở Sàigòn, láng giềng đa số là dân Việt ba miền, miền nào thì miền, đã di cư sang xứ người, đặc tính của mỗi miền cũng phai dần để nhập thành người Việt xa nhà. Bắc Kỳ lịch lãm, Trung Kỳ ăn chắc mặc bền, Nam Kỳ ăn nói thoải mái xả láng, ngày xưa ba miền ngồi chung mâm thế nào cũng nghe ông Bắc và ông Trung nói mát nhau, ông Nam kỳ ních một bụng căng cứng để lấy sức, xin can, các anh lo đấu khẩu tôi chén hết phần các vị đấy, thế là hai ông kia phải cầm đũa mà chĩa cho nhanh vì ông Nam ăn thật lòng hết dạ gần hết sạch mâm cỗ.
Xóm nhà sàn này có tên gọi kiêu sa lắm, Biệt Thự Kim Cương, giời ạ, chú Sam chắc chưa biết nhà sàn cầu Trương Minh Giảng « mùi mẫm » như thế nào mà đặt tên xóm này nghe điệu đà quá, dân tình trong xóm mộc mạc dễ gần chứ đâu có kiêu kỳ như dân ở biệt thự thời xưa bên VN.
Anh chị Năm ở ngay đầu ngõ nhà em tôi, đi vào cổng nếu gặp anh chị, thế nào anh chị cũng mời chào, cô Tư qua hôm nào vậy, chiều qua nhà anh chị ăn cơm, canh chua bạc hà, gà kho quẹt, tôi gật đầu cho phải phép, nhưng cũng thòng một câu đỡ đạn, để cô em sắp xếp rồi sẽ ghé anh chị.
Tôi là người con thứ ba trong gia đình nên tự động được anh chị gọi cô Tư, em tôi đương nhiên là cô út, gà kho quẹt của anh chị là gà chuồng anh chị mua chỗ quen, kho nước mắm đặc quánh tôi tha hồ vét cái nồi đất của họ, bạc hà rau thơm có sẵn vườn nhà, canh chua đúng điệu miền nam.
Anh chị biết tôi thèm nước mắm từ khi sang ngang, cách đây ba mươi năm tôi theo chồng với một hy sanh lớn, tôi thề sẽ từ bỏ nước mắm vì chàng không chịu nổi mùi vị quốc túy này, kể cả tương chao, bạn bè dạo đó trêu tôi, lấy chàng tôi mất hết thú vui ăn chơi trên đời. Chàng chắc mẫm, sống dưới bóng tùng của chàng lúc chết tôi không cần gõ cửa xin ông thánh Phê Rô để vào Nước Chúa, thiên đàng của chàng hấp dẫn hơn, tôi theo tiếng gọi con tim nên mất thiên đàng mắm muối, còn thiên đàng trần thế này, ai đã tìm thấy, xin mách giúp.
Đối diện nhà em tôi, là nhà chị Viễn, tôi tặng chị biệt hiệu, O Xì Tu Dô (studio), quê O ngoài nớ nhưng làm dâu miệt vườn trong Nam hơn mười năm, tính nết dễ gần. O trạc tuổi tôi, ở nhà trông cháu, suốt ngày rượt đuổi theo thằng cu Ki và con bé Kẹo khắp xóm, nhân tiện O tự thành lập phòng thông tin di động.
O lấy tin tài tình như dân nằm vùng thời xưa nhưng O là dân Cộng Hòa chính hiệu, tía của O chết trong trận Mậu Thân, ai đến ai đi O biết hết, tôi là khách vãng lai, nên chưa lọt vào danh bạ cư dân của O.
Căn nhà phía sau nhà em tôi có chủ mới dọn tới sáng nay, O chờ em tôi đi làm về, con nhỏ mới tắm xong, O đẩy cửa bước vào, tường trình, tụi này trẻ măng, mới « Mu » hồi sáng, trả tiền mặt một cái rụp, giá hời mà, hồi nãy tụi nó đang dọn đồ vào, mai tui qua phụ tụi nó một tay, xong thiên phóng sự bỏ túi, O tự động rút lui để chị em tôi ăn cơm chiều.
Đợi O ra khỏi nhà, tôi hỏi cô em, bà O mù chữ mà tường trình như phóng viên chuyên nghiệp, cô em cười ruồi, bả là cô giáo tiểu học ở miệt vườn làm sao mù chữ được, tôi cãi, người ta mới mua nhà sao O nói « Mu » trả tiền mặt đó. Cô em cười hả hê, chị mù chữ tiếng Anh mà chê người ta, Mu đây là « Move », di chuyển, dọn đến đó, tôi chống chế, ai biết được, dân miệt vườn hay nói trại, số mười họ nói Mừ, cười là Cừ nên chị tưởng…
Hôm sau O rẽ hàng dậu sau nhà em tôi, bước qua nhà hàng xóm mới « Mu » đến hôm qua, bưng bê chút đỉnh phụ chủ nhà, đến trưa O leo qua hàng dậu nhà em tôi, quay về nhà O, và bê qua nhà hai đứa mới dọn tới nồi cá kho với rau lang luộc trồng sau hè nhà O.
Ơ cá kho hôm đó làm đầu câu chuyện, thế là O tải đầy đủ lý lịch gia cảnh của hai đứa trẻ măng kia vào danh bạ dân cư Biệt Thự Kim Cương ngay, kỷ thuật lấy tin của O hay đáo để.
Lối bắt chuyện khá linh hoạt của O ban đầu làm vài người khó chịu, nhất là những người lớn tuổi hơn O, gốc miền Trung, miền Bắc, và cả miền Nam, những người quen lối sống thành thị văn minh, ít để ý đến hàng xóm láng giềng như dân ở thôn làng.
Ngày gia đình O đổ bộ đến xóm này, O ra mắt với bà con bằng mâm xôi chè, ai cũng bối rối, chưa biết phải làm răng để đáp lại tấm thịnh tình của O. Thấy hàng xóm nửa vui nửa ngại, O đã nhanh nhẩu giải tỏa nỗi lòng của mọi người bằng một câu thật dễ thương, trước lạ sau quen, tôi chào sân quý vị bằng món chè với hy vọng thân tình giữa chúng ta sẽ dịu ngọt và có hậu. 
Từ ngày O đến đây hàng xóm bỗng xôn xao nhích lại gần nhau từ cái trạm thông tin tự phát của O, cái hậu dịu ngọt của mâm chè ngày ra mắt láng giềng đôi khi ngọt đến gắt cổ họng khi O tự nhiên vào nhà hàng xóm không cần gõ cửa nếu nhà ai không có thói quen then cài cửa chốt. Chất ngọt thân quen đậm tình láng giềng đó vô tình làm dân cư « suy tư bên bờ vắng », từ đó nhà nhà đều then cài kín cổng. Nói gì thì nói, O cũng gốc nhà giáo, cũng còn phong độ thầy cô gõ đầu trẻ, nên sau này O bắt đầu gõ cửa trước khi vào nhà, nếu gõ mà không thấy ai mở, O cứ ới tên chủ nhà vài tiếng (và đúng như trong Thánh Kinh O nghe từ thuở nhỏ, “Hãy gõ, cửa sẽ mở”, chủ nhà ắt sẽ mời O vào.
Vợ chồng bác Liên khi về hưu đã bán nhà chia của cho các con và dọn vào đây cho gần chợ Little Sàigòn và các siêu thị VN, hai bác đến đây năm năm trước gia đình O, nhưng hai bác sống khá kín đáo, giao du với hàng xóm rất chừng mực. O biết bác người bắc, giữ kẽ, nên O rón rén gõ cửa nhà bác để biếu bác bầu bí, khổ qua…sau mùa thu hoạch, cô em tôi được O xếp vào mục người nhà, nên O xếp bầu bí rau muống nằm trước cửa với tờ giấy viết ít chữ, chị chia với nhỏ ít rau quả hái hồi sáng, O thật mộc mạc dễ mến.
Tôi cũng thích O, nhưng nhớ mãi lần đầu gặp O tinh tú quây cuồng đến chóng mặt, hôm đó cô em đi làm, bỏ tôi ở nhà một mình, đang đánh thư cho chồng con, O nhích cửa bước vào làm tôi hết hồn, cô Tư làm gì đó, tôi thật thà, đang viết thư cho ông xã.

Thế là O móc ngay cái trạm thông tin đặt một cái cụp lên bàn, cô Tư giận ông xã nên bỏ qua đây chơi phải không, hôm qua cô út nói cô ở đến một tháng, mà tôi thấy có ông nào đó chở cô và xách va li vào nhà giúp cô. O nã một tràng đại liên tin vịt làm tôi nín cười đến ngạt thở, nhìn đôi mắt lanh đen trữ tình của O, tôi nửa mừng nửa lo cho ông xã của O đã cưỡm được một người có đôi mắt đẹp, nhìn đời đầy hoa lá cành.
Chờ O nghỉ để nạp đạn cho tràng đại liên mới, tôi thỏ thẻ, ông xã bận công việc nên cử em sang đây dự đám cưới con gái bà chị chồng, tiện thể em thăm cháu ruột và bạn bè, ông kẹ hôm qua chở em về đây là bạn cố tri, vợ ông là bạn thân của em, tối nay họ mời em đến nhà dùng cơm. Lại cặp mắt nhung đen nhìn tôi đầy nuối tiếc, O như hụt hẫng vì một « xì căn đan » ảo vừa biến mất trong kịch bản của O, hú vía, may mà O hỏi cho thoả chí, nếu O còn thắc mắc nghi ngờ, O sẽ trăn trở khó ngủ đêm nay.
Tôi có nghe vài người than phiền cái nghiệp phóng viên tài tử của O, tôi thông cảm cho O, một người hoạt bát, một ngày đẹp trời bị các con rinh qua đây để làm vú em trông cháu, bị bó tay trói chân, hỏi sao O không tiếc dĩ vãng vàng son ở miệt vườn. Thuở đó cha mẹ học trò đa số là nông dân, họ đưa O lên hàng chúa tể chữ nghĩa, nhất cử nhất động đều « xin ý kiến cô giáo », bi chừ rong rủi với hai đứa trẻ, nếu không muốn lụt nghề, O phải tự tạo một công việc thích hợp với năng khiếu trời cho.
Cái nghiệp ngang xương đó một ngày đẹp trời làm nên chuyện lớn, O đang rượt đuổi cu Ki trước nhà bà Mỹ già, cửa chính hé mở, O bước lên bậc tam cấp nhìn vào, bà Mỹ nằm thẳng đơ, O dông về nhà gọi 911, còi hụ inh ỏi khắp xóm. Tuần sau gia đình bà Mỹ, có cả con cháu, sang cảm tạ O đã gọi 911 kịp thời nên bà Mỹ không hề hấn gì, từ đó làng giềng thầm thừa nhận phòng thông tin di động của O đôi khi cũng hữu ích.
Có lần chị em tôi được hàng xóm mời ăn cơm ngoài vườn rau sau hè, đương nhiên là không thể thiếu, giám đốc tự đăng cai của phòng thông tin di động, chủ nhà nâng ly chào đón khách vãng lai tôi đây, mọi người cùng hô, dô dô cô Tư, trước lạ sau quen. Tôi chưa kịp đáp lễ, O đã lên tiếng, dô cô Tư Paris, O không làm tôi thất vọng với biệt hiệu Xì Tu Dô, O moi ở đâu ra cái biệt danh kiêu kỳ này để gán cho tôi, tôi thầm nghĩ, « chí bé gặp nhau », O cũng có máu tếu rất ư là lịch lãm. Tôi bối rối đính chính, tôi ở vùng phụ cận Paris, kiểu như Bà Quẹo, Bà Điểm bên hông Sàigòn vậy đó, chứ không phải ở trong Paris, O chưa tha cho tôi, nhầm gì cô Tư, mình đi xa nói hưu nói vượn ai biết, nói Paris cho ngắn gọn và sang nữa, tôi cười trừ, tùy người nghe cảm nhận. O cũng nói đúng một phần, nói Paris, Lyon, Bordeaux, ai cũng hiểu tôi đến từ đâu, chứ nói nơi tôi đang cư ngụ cách Paris 15 cây số, chắc chắn chả ai biết cái xó xỉnh đó nằm ở mô, nên đành nói trài trại Paris cho dễ hiểu.
Sau bữa tiệc, mỗi khi thấy tôi, có người đùa “Paris có gì lạ"” tôi cười cười tâm tình, Paris vẫn thế, nhớ xóm Biệt Thự đông vui nên tôi bỏ nhà sang đây du ngoạn, thật ra gia đình chúng tôi sống neo đơn bên Tây, gia đình hai họ đều định cư bên Cali. Tuyến đường Paris – Cali trở nên điểm đến thường xuyên hơn Paris – Sàigòn, dù VN là nơi chôn nhau cắt rốn, vì quê hương chưa là chùm khế ngọt, vị đắng thời CS còn đó, đạo đức, tình người đã tuyệt chủng, có còn chăng là những gì để nhớ và nuối tiếc thời Cộng Hòa đã qua rồi.
Năm đó trước khi quay về Paris, tôi ghé nhà O tâm tình, phải công nhận tổng hành dinh của O đúng điệu quán lá bên đường, bộ bàn trà với bốn chiếc ghế thấp trú dưới dàn mướp leo làm hiên che nắng, nằm giữa hàng cây cam, chuối, chanh, ớt … với cái lu sành chứa nước mưa, chỉ thiếu gầu múc nước là đúng điệu quán Ta trên đất Mỹ.
O kéo ghế mời tôi, cô tư uống nước sâm nóng nhe, tôi gật đầu và mê mệt đếm mấy gốc rau thơm đó đây, cốc nước sâm bốc mùi đưa tôi về quán của O, tôi khen, chị có cái quán đáng mặt miệt vườn, chắc chị nhớ trường làng bên kia đại dương hỉ. Tôi sờ đúng nỗi lòng kẻ ở miền xa, O long lanh mắt nhung sổ bầu tâm sự, nhớ đứt ruột cô Tư nó ơi, học trò của chị bữa ni tụi nó lớn đại, có đứa tốt nghiệp đại học mở công ty làm ăn khá lắm, tụi nó rủ chị về hoài mà kẹt hai đứa cháu trói chân. Có đứa du lịch qua đây, tụi nó năn nỉ hết lời, chị nghe chộn rộn lắm nhưng chưa biết tính sao, con chị làm đến hai jobs, làm sao chị đi được, chờ tụi nó khấm khá hơn rồi tính. Giọng O đợm vị luyến tiếc làm tôi chạnh lòng, thương quá phụ nữ mình lúc nào cũng nghĩ và sống vì người khác, bây giờ O còn sức chạy theo cu Ki, bé Kẹo mà không dám đi chơi, đợi đến lúc con O ăn nên làm ra thì gân cốt của O đã rệu rạo mất rồi, hay ai biết được « Chúa đã thương gọi O về bên Ngài ». 
Năm nay tôi không còn cơ hội chuyện trò với O nữa, con của O đã « Mu » qua tiểu bang lạnh, bứng luôn cái trạm thông tin miệt vườn của tôi, dân cư Biệt Thự Kim Cương bị tắt đài, thông tin tắt tị, thiên hạ đâm ra trầm tư, gặp nhau chào hỏi thân tình nhưng chưa có ai tìm ra phương thức lấy tin và truyền tin hữu hiệu như O.
O đi rồi mọi người mới thấy thiếu nét sinh động xôn xao của xóm nhà sàn thuở trước, bà Mỹ già thỉnh thoảng tản bộ, nhìn dáo dát, chào hỏi láng giềng mà thầm tiếc vị ân nhân VN đã dũ áo ra đi khiến bà đâm lo, sau này lỡ bà có chuyện, còn ai gọi 911 cho bà nhờ.
Tuy O đã giã từ xóm cũ, nhưng dân cư vẫn giữ cái lệ làng của O, vào hè thiên hạ thi nhau biếu xén, trao đổi nông phẩm, có nhà phải năn nỉ anh năm chị bảy, nhận đâu nhận đại giùm rau củ quả, ăn lấy thảo và giúp gia chủ thanh toán nông sản bội thu.
Nét đẹp miệt vườn nhờ O mà hồi sinh trên đất khách, tuy cái đài phát thanh của O đôi khi có làm phiền người kỹ tính, giờ vắng giọng ngoài nớ trọ trẹ miệt vườn của O, xóm nhà sàn như thiếu đi hương vị quê hương.
Nhìn dàn mướp nhà ai đong đưa trong gió, tôi nhớ đến tổng hành dinh của O, ngoài tôi đây chắc cũng có khối người kéo cái ghế thấp ngồi vào bàn và uống nước sâm, nước trà với O để nghe O tường thuật tin nóng hổi trong ngày, hoặc khách tự động trút bầu tâm sự khi đối diện đôi mắt nhung đen của O.
Bỗng tôi nghe tiếng O văng vẳng đâu đó, cô Tư, mùa ni Paris chắc đông vui hỉ, vậy mà cô bỏ thành phố hoa lệ qua bên ni, lại trú ở xóm nhà sàn, tôi cười mỉm, nhớ cái đài của O nên bỏ chồng con qua đây.
Bác Liên đi ngang nhà tôi hỏi, cô Tư nghĩ gì mà cười một mình thế, tôi tự thú, nghĩ đến chị Viễn, thiếu chị tôi thấy xóm mình hơi tỉnh lặng, bác trầm tư, tôi cũng thấy nhớ, chị như một gốc quê hương xào xạc lá tre, nhớ quá bát chè đậm nước cốt dừa của chị, thế cô Tư sang đây tha hồ dùng nước mắm cho thoả cơn nhé.
Tưởng chỉ có O với anh chị Năm đầu ngõ biết tôi bị cấm vận nước chấm quốc lũi, ai dè cái đài của O đưa tin quá êm, khá kín đáo, tài tình như gián điệp « không sợ không ngán ai ». Nếu biết dân cư biệt thự biết rõ « chuyện tình không mắm muối » của tôi, tôi đã lấy quách cái biệt danh “Tư nước mắm” nhát chàng của tôi cho bỏ ghét, bi chừ giám đốc Xì Tu Dô “mu” đi mất tiêu rồi, còn ai để tôi viết đơn xin đổi biệt danh đây.
Trước khi rời Cali, tôi tìm đến bác Liên, thắc mắc, chị Viễn đi rồi ai cũng tiếc nhưng sao không thấy ai tình nguyện “giúp vui văn nghệ” như chị bác nhỉ, bác cười ruồi, cô Tư nghĩ cái nghề thông tin phát thanh vô vụ lợi của chị Viễn dễ lắm sao, phải có máu tếu, nhìn đời nhẹ như tơ và nhất là biết nói chuyện với người đối diện nữa.
Bác là người thanh lịch mà khen O như thế, tôi chắc mẫm là O có tài ăn nói đúng điệu ba miền xứ Việt, miền nào giọng đó, nhất là cá tính từng miền, vậy là dân cư Biệt Thự Kim Cương thiệt thòi quá, bỗng dưng bị mất cái đài phát thanh lưu động một cách oan uổng.
Một văn hào Tây đã phán, “trời đất sẽ hoang vu vì thiếu người mình yêu,” dân cư ở đây chưa có ai yêu O, ngoài chồng của O, nhưng thiếu giọng nói của O, mất cái đài của O, xóm nhà sàn như thiếu vắng tình tự quê hương.
Tôi đến và rời Cali thấy thiếu cái vị nhớ nhung thuở trước, nhất là đôi mắt nhung của O đã xa rồi, còn chăng là vị nước mắm lúc nào cũng mặn mà, hấp dẫn.
Đoàn Thị

Ý kiến bạn đọc
03/09/201105:50:27
Khách
Cuối tuần, đọc Xóm Nhà Sàn của Đoàn Thị thấy vui, thoải mái. Cám ơn tác giả thật nhiều. Mùa thu Paris đang đến, , xóm nhà của tác giả đã nhiều lá vàng rơi ? viết thêm bài với những lá vàng mùa thu, mong được đọc thêm nhiều bài viết của Đoàn Thị, chúc ĐT vui khoẻ, hạnh phúc.
07/09/201113:55:31
Khách
bài rặt mùi nước mắm mà có người bạn đời không ăn được fischsause thì sao mà sống được ??
1 người đồng cảnh ngộ !!!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,321,874
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017, đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2018 năm thứ XIX. Sau nhiều năm làm công việc khai thuế tại vùng Hollywood, cô và gia đình hiện đã rời Los Angeles để trở thành cư dân quận Cam.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại. Một số bài viết khác của cô được ký tên Thịnh Hương. Nay hai bút hiệu hợp nhất, thành một tác giả thân quen của sinh hoạt Việt Báo. Tác giả hiện cư trú và làm việc tại miền Bắc California. Bài mới của cô dành cho ngày Lễ Halloween
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2014. Cô sinh năm 1962, tốt nghiệp Đại Học Mỹ Thuật năm 1988 khoa Đồ Họa tại Việt Nam, từng làm công việc thiết kế sáng tạo trong ngành quảng cáo.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông tên thật là Chu Văn Huy, cựu tù, vượt biển, hiện là cư dân San Jose, đã nghỉ hưu sau 37 năm làm việc cho các hãng điện tử tại Silicon Valley - Thung lũng Hoa Vàng, California. Đây là bài mới nhất của Ông.