Hôm nay,  

Tháng Tư: Em Đất Mỹ, Chị Biển Đông

29/04/200900:00:00(Xem: 119309)

Tháng Tư: Em Đất Mỹ, Chị Biển Đông

Tác giả: Chương Khuê
Bài số 2600-16208677- vb442909

Tác giả là cư dân tiểu bang WA, đã dự Viết Về Nước Mỹ từ 2001 với bài "Nỗi Lòng Quốc Tịch",  ký tên Nguyễn Huy. Bẩy năm sau, từ 2008, ông tiếp tục viết lại với các bài "Tạ Ơn Ai", "Hai Người Cựu Chiến Binh", ký bút hiệu Chương Khuê.  Bài viết mới của ông là một tự sự nhiều xúc động dành cho Tháng Tư.

***

Chị ơi.,
Đã ba muơi tư năm rồi,  mà chuyện như mới hôm kia hôm qua.
Chiều 30 Tháng Tư,  năm 1975,  em đến nhà Chị.Từ ngày vào lính,  đã bảy năm,  lần đầu tiên không với bộ quân phục,  nhưng trong bộ quần áo civil cụt cỡn,  lẹt xẹt đôi dép nhỏ hơn chân. Chị ra mở cửa,  sững sờ một thoáng rồi cũng nhận ra,  ôm lấy em,  nói như khóc:
 "Chúng nó vào,  chết rồi chú ơi!".
Em vừa buông súng,  bỏ chiến xa; đơn vị tan hàng, sau khi kéo về Ngã Bảy Chợ Lớn,  theo lệnh trên,  và "từ giờ phút này,  con cái ai đi được đâu thì đi".
Em không đến nhà Th.,  trên đường Trần Hoàng Quân,  chỉ cách mấy phút đi bộ,  như trước đây mỗi lần em xuống khỏi xe Lam hay xe buýt nơi trạm Ngã Bảy này. Chẳng phải vì em sợ nàng không còn thấy trên ve áo ba bông mai nàng mới gửi tặng em qua đường bưu điện ngày em được thăng cấp mà em vừa lột xuống,  để lại trong lòng chiến xa.
Dựa vào tin tức sụp đổ giây chuyền quá nhanh sau khi Cao Nguyên thất thủ, và nghe được những nhận định tình hình của người cậu Đại tá phục vụ tại Bộ TTM, Th.đã bày tỏ cùng em nỗi lo sợ Việt Cộng không bao lâu nữa sẽ vào đến Sài gòn,  nhưng em nghĩ là nàng đã không ngờ được quân đội ta lại bị chiến bại một cách tức tưởi, bẽ bàng,  nhục nhã,  và người lính chúng em bị bỏ rơi như thệ; em không thể để Th. thấy em trở về trong tình cảnh thê thảm ấy. Nó tàn nhẫn quá đối với tâm hồn người thiếu nữ mà ký ức đã đượm in hình ảnh người "anh hùng kỵ binh" từ lúc nàng mới tuổi mười bốn
Em cùng vài người khác nữa đi theo một đồng đội,  Đại úy Trg. ghé nhà anh ta cũng gần đó để xin bộ quần áo dân sự. Ngoài đường đã xuất hiện bọn "hoạt động nội thành",  và lác đác những loạt đạn AK. Người vợ bạn vẫn bình tĩnh,  hai tay cầm cái thau chìa ra cho từng người đặt vào đó súng lục,  lựu đạn và giấy tờ liên quan đến nhà binh,  để nhờ anh chị ấy "thanh toán" cho.
Người ta lột da con thỏ khi nó đã chết. Mấy đứa hàng binh bọn em trút bỏ quân phục như tự lột da của chính mình. Em chợt ân hận đã gài lại chốt trái lựu đạn em đã mở ra để tự sát khi rời khỏi chiến xa và đứng quay mặt về Đại lộ Trần Hoàng Quân,  mấp máy môi lời vĩnh biệt Th. và tự hỏi không biết Thg.,  anh của Th.,  phi công chiến đấu cơ Ạ37,  có đưa gia đình thóat được không.
"Chúng nó vào,  chết rồi chú ơi!" Em ngạc nhiên. Trước đây mỗi khi về phép,  nhìn thấy em ngày một dạn dày phong sương,  nghe em kể tên bạn đồng khóa đứa bị thương đứa chết lần mòn; ra trường về cùng đơn vị,  mười ba thằng,  chỉ một năm sau,  còn phân nửa,  và nhất là lần em trở về với một nửa mặt xám xịt,  với một cánh tay đeo trước ngực bằng cuộn băng trắng choàng qua cổ,  Chị càng thôi thúc em, " đào ngũ đi chú,  chị thấy tội nghiệp các chú quá; để Cộng Sản nó vào cũng được.".
"Cộng Sản nó vào cũng được!" Không chỉ vì "thấy tội nghiệp" đứa em họ của chồng,  mà vì tin tức hằng ngày qua báo chí,  truyền hinh,  những cảnh  pháo kích,  đặt mìn xe đò , tung lựu đạn trong rạp hát,  mồ chôn tập thể thể,  sự tàn bạo của chiến tranh,  dù chúng ta ở phía tự vệ,  đã khiến Chị thốt lên lời như thế;Chị quên mất những chuyện trước đây Chị đã được kể. Trên đất Bắc,  anh đã bị chúng đến còng tay bắt đi trước con mắt ngơ ngác của đám học trò; anh đi tù rồi trốn đi Nam; chuyện mật khu Dương Minh Châu "lên hồ sơ" anh mà Sư Đoàn 5 hành quân tịch thu được,  và vô số những chuyển kể năm.. 1954,  kinh hoàng,  oan nghiệt trong xã hội Miền Bắc cọng sản.


Chính em đây,  dẫu đã nếm mùi lang sói từ bé,  cũng có lúc rã rời chán nản; thoáng có ý nghĩ theo Chị, "đào ngũ đi chú". Đó là những khi từ mặt trận trở về,  chứng kiến cảnh vô tình của người hậu phương,  cảnh phản bội trắng trợn của không ít đám người mệnh danh trí thức đang sống an bình nơi phố thị, hay bản thân trăn trở trước những điều khó hiểu. Chẳng hạn sự đãi ngộ bất công đầy vô lý ngay từ bộ máy chính quyền đối với những người lính thuộc Binh chủng Thiết Giáp trực diện với địch quân ngoài chiến trường, lại không được kể là thành phần chiến đấu,  về mặt quyền lợi,  như những người lính thuộc binh chủng khác có khi, xung phong vào mục tiêu,  còn chạy phía sau!
Chẳng hạn,  đến bây giờ 34 năm sau cuộc chiến,  em vẫn không hiểu được tại sao chính quyền miền Nam thời đó đã chẳng những cho phổ biến thoái mái,  mà còn gửi "Đoàn Văn Nghệ Trung Ương" đi ủy lạo chiến trường,  hát cả những bài ca kiểu nối vòng tay từ Bắc vô Nam có nội dung ai cũng rõ tình ý là ngợi ca cổ vũ đoàn quân xâm lược,  như đầu tháng Tư  (hay cuối tháng Ba") 1975 tạiTrường Thiết Giáp ở Long Thành,  sau trận phản công chiến thắng bọn Đặc Công VC.
"Chúng nó vào,  chết rồi chú ơi". Chị đã chết,  nhưng Chị không ngờ được cái chết do chúng nó mang từ Bắc vào bi thảm đến ngần ấy.
Anh đi lưu đày mãi đất bắc xa xăm; Chị cùng đàn con thơ bị lùa lên chốn rừng thiêng nước độc; những trẻ thơ"đẹp tựa thiên thần" thoắt một cái hóa thành,  thân thì bụng ỏng da chì,  hồn trí thì ngẩn ngơ đờ đẫn. Phần Chị đã bị bao cán bộ công an đến tán tỉnh,  khi thì dụ dỗ ngọt bùi,  khi hăm dọa hãm hiếp; chúng cũng không buông tha thân người đàn bà đã phờ phạc vì đừơng xa băng rừng vượt suối đang đêm thao thức trong lán trại chờ sáng gặp thăm chồng. Chị đã bán đến cái gia sản cuối cùng là chiếc áo cưới anh sắm cho để mua được con gà và gói thuốc chuột,  với ý định quyên sinh một lần mấy mẹ con,  nhưng khi từng tô cháo đã được múc ra,  cháu lớn đã "mẹ ơi con còn muốn sống".
Chị cũng còn muốn sống với đàn con,  và theo lời khuyên của anh từ trại tù,  tìm đường vượt biên,  nhưng đường đi không đến.
Chúng nó đã vào, Chị đã chết. Giữa Biển Đông,

Chị ơi, 
Xưa đọc truyện Kiều,  Chị đã xót xa tội nghiệp nàng Đạm Tiên bất hạnh phải xác thân "vùi nông một nấm bên đàng". Nay mường tượng đáy Biển Đông,  em hình dung ra chốn nào "vùi" hộ Chị chút hình hài còn lại tóc xương"
Hơn ba mươi năm rồi, hồn Chị đã quen chưa Biển Đông ướt lạnh" Em trên đất Mỹ với số năm lưu lạc Thúy Kiều bốn mùa đông giá. Ở đây có máy sởi,  áo dày,  rượu nồng,  sao em cứ rét mướt quanh năm.
Chị hiển linh sẽ hỏi em sao không tìm về Cali nắng ấm. Em đã đến đó mùa Hè,  đi giữa phố Bolsa của Sàigòn Nhỏ,  ngồi với bạn cũ nhâm nhi café,  nhìn dòng người toàn Việt qua lại nhộn nhịp nơi khu chợ Phước Lộc Thọ. Nhưng sao em vẫn không am lên được. Phải chăng vì em đã úa sủng nỗi lòng biệt xứ. Em chợt nhớ lại lời ai,  "L exité partout est seul- Đời lưu lạc nơi đâu cũng cô độc".
Em khát khao sợi nắng ấm Sài Gòn,  Nha Trang... đất trời Việt Nam. Nhưng từ buổi cắn răng chấp nhận kiếp viễn xứ,  em chưa một lần về.
Em sợ bay qua Biển Đông,  nơi tan tác nửa triệu mảnh đời Việt, trong đó có Chị và những người phụ nữ khác; có thể là cô nữ sinh đã choàng cho em vòng hoa chiến thắng năm nào nơi vận động trường quận lỵ Cai Lậy,  Mỹ Tho trong nắng sớm vưà lên,  hay có thể là những "em gái hậu phương" đã gởi gấm niềm tin nơi "người tiền tuyến" sẽ bảo vệ các em sống mãi an lành. Em sợ nhìn thấy bao nhiêu điều khác ...
Vì ai nông nổi"  Em không quy trách cho người Mỹ "đồng minh tháo chạy"; họ đâu có trách nhiệm bảo vệ con dân không phải của đất nước Hoa Kỳ. Trách nhiệm là ở chính em một phần không làm tròn bổn phận mình,  đã "giừ nước, nước mất; giữ nhà,  nhà tan", như câu thơ của Hà Huyền Chi.
Chị ơi,
Tháng Tư oan nghiệt lại hiện về
Đốt nén hương lòng dạ tái tê
Dâng Chị oan khiên hồn Đông Hải
Thương em trôi dạt cuối trời mê
 Chương Khuê

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,249,832
Với bài "Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine", tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thểm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới của cô.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn, được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Nhạc sĩ Cung Tiến