Tâm Sự Tháng Tư: Tìm Đâu Nguồn Cội
Tác giả: Trần Hồng Linh
Bài số 2579-16208656- vb740409
Tác giả là một thuyền nhân định cư tại Bắc Mỹ, kể lại chuyến về thăm Saigon lần đầu. Bài viết của bà được ghi là "để kỷ niệm ngày đau buồn Tháng Tư 1975," và thể hiện niềm khắc khoải của tác giả về thế hệ sinh sau 1975, đang sống trong nước và ngoài nước." Mong Trần Hồng Linh sẽ tiếp tục viết thêm.
***
Khối nắng đổ xuống giữa trưa như muốn làm mềm lớp nhựa đen trên đường. Dòng xe cộ chen chúc cùng với những tiếng còi xe gắn máy thi nhau inh ỏi ré lên, đòi hỏi sự lưu hành ưu tiên. Tôi nắm chặt lấy tay đứa cháu gái, con ông anh, ngập ngừng băng qua con đường ở thành phố Sài Gòn. Bề ngang của lòng đường chỉ khoảng rộng bằng ba lane xe chạy thôi, mà sao tôi nhút nhát, bối rối, không biết nên bước tới hay dừng lại vì lượng xe gắn máy vù vù qua mặt quá đông.
"Cứ như cô thì làm sao băng qua đường được," đứa cháu gái rộn ràng tiếng cười, " để cháu dắt cô đi "
Trâm nhanh nhẹn kéo tay tôi lôi đi. Một tay tôi ôm túi đồ, tay kia tôi nắm chăt lấy Trâm như thể sợ vụt mất vị cứu tinh của mình. Tiếng còi xe gắn máy cứ làm tôi giật mình liên tục, tim muốn rơi ra ngoài vì sự chen lấn của dòng xe, cái xe nào cũng như chực đâm sầm vào tôi. Nếu không có Trâm, tôi không biết sẽ xử trí ra sao trong những ngày đầu bước chân ra đường phố. Tôi lúng túng trong mọi việc mua sắm và ngay cả việc băng ngang qua một con đường, tôi cũng không dám quyết định. Tôi không ngờ rằng chỉ hơn hai mươi năm xa cách quê hương, tôi bỗng trở nên người khách lạ trên vùng đất nhà, mọi thứ sinh hoạt của thành phố trở nên lạ lẫm đối với tôi. May mà có Trâm hướng dẫn tôi trong mọi việc ở nơi này. Dù sao với Trâm, là người trong gia đình, chúng tôi dễ thân thuộc với nhau, không như buổi tiếp xúc ban đầu với hàng xóm, tôi còn nhớ như in.
Buổi sáng đầu tiên trên quê hương, đứng trước sân nhà, tôi còn bỡ ngỡ với không khí và cảnh vật thay đổi ở nơi này. Nhác thấy người hàng xóm bước ra cửa, tôi cất tiếng chào hỏi. Ông hàng xóm cũng nhận ra tôi và cất tiếng chào lại. Câu chuyện đang hào hứng sôi nổi với những hỏi thăm nhau về cuộc sống, bỗng từ xa một cô bé chừng mười bốn, mười lăm tuổi rụt rè tiến đến. Ông hàng xóm vừa vẫy tay gọi cô gái nhỏ, vừa giới thiệu, "Con tôi đấy cô à, hồi cô ra đi tôi chưa có đứa này." đoạn ông ta quay sang bảo đứa con chào tôi. Cô gái tròn mắt, ra dáng ngạc nhiên vì lời nói của ông bố, ý chừng không biết tôi là ai, ánh mắt thơ ngây và đầy tò mò, dò hỏi. Ông ta vội nói "Chào cô đi con, cô Hằng là con ông bà Mùi." Muốn thêm rõ ràng hơn nữa về phần lý lịch của tôi, ông ta quay sang nói tiếp với đứa con "Cô Hằng là chị của cô Phương và chú Thắng đó." À, nói đến mấy đứa em tôi, nói về những người trẻ tuổi thì cô bé có vẻ hiểu nhiều hơn. Cô con gái ông ta mới gật đầu chào như sự mặc nhận mối quan hệ xóm giềng với tôi. Tự dưng trong tôi, một cảm giác ngỡ ngàng ập đến bởi lẽ lời giới thiệu như một bản kê khai lý lịch với cán bộ hộ khẩu năm nào trong việc sưu tra sổ mua lương thực. Tông tích, lý lịch, tiểu sử phải xưng ra. Nào có khác chi chàng Từ Thức trở về quê cũ. Ngày Từ Thức từ tiên cảnh về thăm làng xưa, bùi ngùi vì những người đồng trang lứa không còn nữa. Chẳng mấy ai biết tông môn của Từ Thức để rồi anh chàng não lòng từ biệt quê xưa. Nghĩ ra tôi còn may mắn hơn Từ Thức vì còn có ông hàng xóm biết đến tôi, biết đâu nếu chừng thêm dăm năm nữa, những bạn bè trang lứa không còn nữa, thì mình sẽ ra sao" Chao ôi, có bao nhiêu Từ Thức tân thời trong thế hệ của tôi.
Nghĩ lại buổi tối hôm trứơc, bà chị dâu tôi, mẹ của Trâm thuật lại câu hỏi của đứa cháu tôi "Làm sao để làm quen với cô Hằng"" tôi đã bật cười vì sự thơ ngây của trẻ nhỏ, giờ đây có thêm những đứa bé hàng xóm nhìn tôi bằng ánh mắt dọ hỏi, chừng như muốn biết về thân thế của tôi. Bỗng dưng tôi chơi vơi, hụt hẫng. Những kỳ vọng của chuyến trở về thăm quê tựa như trái bong bóng vuột khỏi tay và bay dần dần lên không trung. Tôi ngỡ ngàng nhận ra sự đổi thay của vùng đất này. Khi xưa tôi thông thuộc từng con ngõ từng khu xóm ngoằn ngòeo, mỗi góc đường mỗi khu phố đầy ắp kỷ niệm thuở thiếu thời. Giờ đây tôi bỡ ngỡ với sự thay đổi của nó cùng với lớp người mới lớn lên. Những biến đổi của cảnh vật và con người sao mau chóng quá đi.
Tôi tần ngần ngước mắt nhìn phía trước khu chợ Tân Định, những cột trụ xi-măng thẳng đứng xếp theo dáng bậc thang ở hai bên cánh nhô cao đến chóp đỉnh. Khoảng giữa mặt trước của chợ là cái đồng hồ to tròn, hai cái kim đồng hồ đứng i sì một chỗ, không nhúc nhích, ngược với sự nhộn nhịp của kẻ chợ mua bán ra vào. Cái chợ không nhiều thay đổi. Có chăng là những bảng hiệu quảng cáo của các sản phẩm nước ngoài đang to choáng nhiều hơn trước. Lượng hàng đầy dẫy, chẳng bù cho sự eo xèo hàng hoá trong thời kỳ Quốc Doanh thương nghiệp lúc chưa có nền kinh tế thị trường. Người ta cho rằng phần lớn đồng đô la Mỹ đến từ người Việt hải ngoại là nguyên nhân thay đổi quan điểm chính trị của nhà cầm quyền nơi đây.
Nghĩ lại lúc vượt biên khỏi Việt nam, chẳng ai có thể tưởng tượng được ngày về thăm quê hương xứ sở. Vậy mà quay trở về thật, về với uy lực của tờ Mỹ kim in hình Tổng thống Washington trong túi áo. Ngày xưa ra đi trốn chạy với bóng tối hiểm nguy, bị coi là kẻ phản quốc. Bây giờ, ở xa thì được gọi là "khúc ruột ngoài ngàn dặm" trở về thì được coi là một thứ việt kiều yêu nước, bởi những tờ Đô Mỹ xanh xanh đầy quyền lực. Thế mới biết đồng tiền đáng sợ thật. Nó khiến cho tập đòan Cộng sản trở nên ngọt nhạt, nhũn nhặn, lịch sự với Việt kiều, là những kẻ đã từng bị lên án là phản quốc.
Đứng bên này đường Hai Bà Trưng, tôi ngắm nhìn phía bên kia là chợ Tân Định. Tôi chợt giật mình nhận ra, cũng ở vị trí này của hơn ba mươi năm về trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi cùng với đám bạn trong xóm, đầy hiếu kỳ, đứng bên lề đường xem đoàn quân miền Bắc tiến vào trung tâm thành phố. Chúng tôi khẽ nói với nhau "Ê, trên nóc cái ba-lô có gài cái chén và đôi đũa, kỳ lạ há." Đòan quân lính gầy gò, nhỏ thó, võ trang súng đạn trên lưng trên vai bước giữa phố phường, có vài người cõng trên lưng cái bao khá nặng, kích thước nhỏ cỡ như cái gối ôm tròn của trẻ nít (sau này tôi mới biết đó là bao gạo của họ). Những người đứng xem trên đường ngơ ngác nhìn nhau hỏi "Thế này mà họ thắng trận được ư""
Vài ngày sau, cảnh phố phường rợp màu cờ nửa xanh nửa đỏ với ngôi sao vàng ở giữa, lá cờ tượng trưng cho sự hoà hợp hoà giải dân tộc được treo ở mỗi gia cư như một thứ bùa hộ mệnh, mong cầu thoát khỏi sự bắt bớ giam cầm.
Giờ đây, khi nghĩ về lá cờ giải phóng với nửa xanh nửa đỏ ấy, tôi buồn cười cho những ý tưởng thơ ngây về sự xây dựng nền hoà bình của nước tôi bằng những hoà giải. Xương máu đã đổ ra, oán hờn ngun ngút, tang tóc điêu tàn, dễ gì thoả thuận bắt tay với đối thủ đây chứ. Làm gì có tổ chức chính trị nào sống nổi với chế độ đảng Cộng sản, bởi thế màu cờ giải phóng phải mau chóng dẹp bỏ và thay vào đó màu đỏ hoàn toàn. Đó là màu tượng trưng cho chiến thắng hay màu u buồn phủ lên dân tộc tôi" Màu cờ báo hiệu cho sự đọa đày, ức hiếp, đói khổ và hàng bao con người chôn trong lòng đại dương. Ách đau thương phủ lên dân tộc tôi từ khi màu cờ đỏ ngự trị trên thành phố Sài Gòn. Bao giờ màu đỏ của lá cờ được thay thế, lúc ấy máu xương con người sẽ không tuôn đổ, dân tôi mới có hoà bình thật sự, có phải thế không" Tôi lắc đầu xua đi những ý nghĩ của mình. Đàn bà chân yếu tay mềm như tôi, nghĩ chi xa xôi quá đi, mình lẩn thẩn lắm rồi đấy.
Trong dòng người tấp nập của khu phố chợ. Trâm dắt tay tôi đi xuôi về phiá cầu Kiệu. Lúc đi ngang tiệm sách, tôi ngập ngừng dừng lại.
"Có việc gì vậy cô"" Trâm hỏi .
"Đi ngang tiệm sách cô nhớ đến thời kỳ sau "giải phóng" người ta mang sách đi đốt."
"Vậy sao cô" Cháu tưởng trong lịch sử chỉ có Tần Thủy Hoàng đốt sách, chứ người Việt mình cũng đốt sách sao"" Trâm cao giọng hỏi.
"Có. Sau khi giải phóng Sài Gòn, những người chiến thắng đã hô hào việc đốt sách, cháu ạ."
Tôi ngậm ngùi nhớ đến những ngày tháng của tháng Năm năm 1975, từng đoàn thanh niên mang băng đỏ trên cánh tay, họ đi lùng khắp phố phường thu gom những sách báo của chế độ cũ trong chiến dịch truy quét tàn dư văn hoá. Lúc bấy giờ, những tiệm sách phải tuôn đổ những sách báo ra lề đường để tháo chạy tội tàng trữ văn hoá đồi trụy. Những ấn phẩm tràn ngập đường phố với giá rẻ như bèo mà chẳng ai dám mua tàng trữ vì không muốn liên lụy, không muốn bị bắt bớ. Tôi chứng kiến những chồng sách chất đầy trên xe ba bánh được dun đến sân nhà thờ Tân Định, nơi có khoảng sân rộng rãi thích hợp cho cuộc tụ hội này. Từng đống sách được tuôn đổ xuống mảnh sân gạch, chất cao như ụn rơm. Sắc mặt ai nấy trở nên nghiêm trọng, một đám người cầm súng AK giơ lên, hò hét, chỉ huy cuộc đốt sách như thể họ đang tổ chức cuộc hành hình xử bắn tội nhân.
Lại nói, khi tất cả những văn hoá phẩm của miền Nam đều bị cấm phổ biến, nhạc vàng loại nhạc tiền chiến cũng bị cấm đoán. Lúc bấy giờ chỉ có bài Nối Vòng Tay Lớn của Trịnh Công Sơn được phép hát trong các buổi sinh hoạt hội đòan của sinh viên học sinh. Còn lại những nhạc phẩm ca ngợi Đảng Cộng Sản và bác Hồ(như .. . đêm qua em mơ gặp bác Hồ) hoặc cả những bài hát phát xuất từ Trung Hoa như Đông Phương Hồng ca ngợi tình hữu nghị giữa Trung Hoa và Việt Nam, được mở đầu cho các buổi sinh hoạt chính trị của giới thanh niên. Bởi vậy khi ngọn lửa phát lên từ những cuốn sách bị đốt trong cuộc tiêu hủy Văn Hoá của miền Nam, một đám thiếu niên bị khích động, chạy vòng quanh gò lửa, hò hét, ca hát reo vang. Những họng súng chia chỉa cùng với đôi mắt trợn trừng của người trưởng toán băng đỏ hối thúc giục giả đám thiếu niên hát to hơn, thét lớn hơn để mừng vui cho thắng lợi vẻ vang thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, những lưỡi lửa đang liếm từng trang sách. Nào khác chi quang cảnh của một buổi tế thần.