Buồn Vui Nơi Xứ Người
Tác giả: Trần Lệ Khanh
Bài số 2527-16208604 vb820809
Tác giả là cư dân Toronto nhưng bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô kể chuyện những năm đầu định cư tại Mỹ, của một gia đình đoàn tụ theo diện bảo lãnh. Mong Trần Lệ Khanh sẽ tiếp tục viết.
***
"Chạy lẹ lên, xe buýt kia kìa." Chỉ cần câu nói vắn tắt thôi. Cả nhóm người co giò chạy nước rút như các vận động viên trong cuộc thi marathon giật giải Olympic để bắt kịp cái xe buýt đang trờ tới.
Giờ tan sở, đám người ùa nhau ra khỏi khu hảng xưởng. Chắng ai muốn bị lỡ chuyến xe vì mọi người đều ớn ngại nỗi ngóng chờ xe buýt trong mùa đông buốt giá. Nơi tôi định cư là vùng phía bắc của nước Mỹ, mùa đông kéo dài vài tháng với lớp tuyết chồng chất cao như gò, lạnh lắm. Trãi qua mùa đông đầu tiên, tôi đã thấm sợ khí hậu khắc nghiệt ở nơi này.
Tôi lạch bạch chạy như một con vịt ở phía cuối đàn. Mấy người bạn đồng nghiệp đã bước lên xe, nhờ họ dềnh dàng moi móc trong túi tấm vé tháng trình cho ông tài xế, tôi mới đủ bắt kịp chuyến xe buýt.
"Nhanh nhanh lên, đi gì chậm quá vậy." Tiếng chị Ba cằn nhằn tôi.
Chị đã nhanh chân bước lọt vào phía trong của xe buýt mà vẫn ngóai đầu lại để trông chừng xem tôi đã lên xe chưa.
Thấy chị có vẻ quạu cọ, tôi cười giả lả "Ừa, bị em mắc rửa tay nên ra trễ."
Tôi quen dần với sự gắt gỏng của chị Ba. Hơi đâu cãi lại chị ấy. Tôi biết chị Ba không vui với cuộc sống hiện tại. Nhưng có buồn thì cũng có giải quyết được gì đâu" Ở bên nhà, chị em tôi mỗi người có một cái xe gắn máy, đâu đến nỗi vất vả chờ xe, đâu có cảnh chạy rượt theo xe buýt như thế này. Chưa kể là những công việc ở hảng xưởng đã khiến chúng tôi mệt phờ người, hết còn thấy Bắc Mỹ là thiên đường hứa hẹn nữa.
Thoạt đầu khi mới đến thành phố ít người Việt này, chúng tôi ở chung với người bảo lảnh (là anh Hai tôi). Tuy nhiên, sự đông người trong căn nhà gây ra nhiều điều không hay khiến chúng tôi phải mướn apartment để ra riêng.
Đó là một căn chung cư gồm hai phòng ngủ, ba má tôi ở một phòng, căn phòng lớn còn lại dành cho hai chị em tôi. Má tôi cứ than thở hoài "Biết thế này thì không đi nước ngoài đâu". Phải thôi, ở Việt Nam gia đình tôi có cuộc sống tương đối đầy đủ. Thỉnh thoảng có vài thùng hàng từ nước ngoài gửi về, cuộc sống của chúng tôi được xếp vào loại khá giả so với nhiều người khác trong xã hội VN. Chúng tôi đâu phải chen chúc trong căn hộ nhỏ hẹp như cái hộp quẹt trong khu building bình dân với đủ sắc dân Tàu, Mễ, Ấn, Miên.... Nhớ lại hồi ở Việt Nam, mỗi khi nhìn toà cao ốc mười mấy tầng lầu ở đường Nguyễn Huệ, trung tâm thành phố Sài gòn, tôi thường mong ước được đứng trên tầng lầu cao để nhìn quang cảnh thành phố. Mình sẽ thấy cái xe nhỏ xíu, con người nhỏ xíu, mọi vật sẽ thu lại từ trên cao nhìn xuống, hẳn sẽ thú vị vô cùng.
Vậy mà cái cao ốc ở Sài gòn nhằm nhò gì so với chiều cao cái building mà tôi đang ở. Căn chung cư này có đến 35 tầng lầu lận, cao hơn căn cao ốc ở Sài gòn nhiều. Rõ ràng tôi đang ở nhà cao, cửa rộng cho dù đó không phải là nhà của mình. Từ căn hộ tôi ở, thuộc tầng thứ 29, tôi được ngắm nhìn quang cảnh phía dưới. Quả là mọi vật bé nhỏ như tôi đã nghĩ. Ước mơ của tôi đã thành đạt, nhưng hỏi tôi có vui với nó không, thì tôi trả lời không. Bởi lẽ căn hộ chung cư ghi dấu những ngày tháng mà chúng tôi có nhiều nỗi buồn hơn là điều vui. Ở thì ở, vì giá mướn rẻ so với các building khác, nhưng lòng tôi không vui với chỗ ở mới chút nào cả.
Trước hết phải kể đến ba má tôi. Ba tôi ngán ngẫm kiểu sống tù túng của building. Ông chỉ còn nước thở dài ngao ngán. Má tôi thì thét toáng lên vào buổi tối khuya ở tuần lễ đầu tiên trú ngụ. Khuya ấy má tôi mất ngủ, má ra khu bếp định xắp dọn lại đống đồ mới dọn đến. Mới bật đèn lên, má tôi thất kinh hồn vía với đàn gián đang bò lổm nhổm, đen kín mặt bàn bếp. Từng đàn, từng đàn, chúng như đang biểu dương lực lượng hù dọa má tôi vậy. Thấy có ánh đèn sáng, lũ gián chạy tán loạn, càng làm má hoảng hốt hơn nữa, bà không ngăn được tiếng kêu gọi chúng tôi thức dậy, phụ giúp bà giết gián. Giết thì giết, chứ có bao giờ hết. Lũ gián chiếm ngụ cả khu building, cứ thấy có bóng tối là chúng tràn ra hoành hành. Sau buổi khuya ấy, cái bóng đèn ở khu bếp chiếu sáng suốt ngày đêm, ngăn chận phần nào sự hiện diện của đàn gián trong nhà tôi. Tất nhiên, tôi không dám nói với má về bóng dáng của vài chú chuột nhắt lẩn quẩn nơi phòng khách. Nhưng thế nào má cũng biết. Chỉ mong là lúc ấy má đừng kinh hãi la om sòm, e rằng ba sẽ buồn, sẽ xót xa cho vợ con trong cảnh sống chật vật nơi xứ người.
Mới có vài tháng ở trong căn chung cư, má tôi đã chép miệng than "Kiểu này chắc quay trở về Việt Nam sống quá." Tôi không dám nói gì hết. Chao ôi! Sao má không nhớ lại thời kỳ má mang khoe những tấm hình từ nước ngoài gửi về cho bà con chòm xóm xem. Trong hình, anh Hai tôi trong bộ đồ veston trang trọng, mắt đeo kính mát, gương mặt rạng rỡ với nụ cười, anh đứng cạnh cái xe hơi láng cóong. Trông anh oai vệ và sang cả sao đâu. Má nói "Sống ở cái xứ bơ sữa dư thừa có khác, thằng Hai mập mạp, nước da sáng rỡ chứ không còn đen nhẽm như hồi ở nhà." Dĩ nhiên, hàng xóm khen không hết lời. Ba má tôi rất hảnh diện về những tấm hình màu của anh Hai tôi. Nhưng tôi không ngắm anh Hai nhiều bằng tôi nghía cái xe hơi xịn trong tấm hình. Khỏi nói, tôi dõng dạc tuyên bố với đám bạn "Tao mà ra nước ngoài, tao mua xe liền cho xem. Xe hơi xứ đó như xe đạp bên mình, ai cũng có hết. Đâu có gì là khó khăn. Nè, xem, tao đã lái xe Dream 2 thì sẽ lái xế xịn mấy hồi. Tụi bây chờ tao gửi hình về xem cái xế hộp của tao nghen."
Nhưng sau vài tháng đầu định cư, tôi nhận ra câu phát biểu của mình coi bộ còn xa vời lắm mới thực hiện được. Tiền mướn nhà chiếm tỉ lệ khá cao so với mức thu nhập của người công nhân. Biết bao giờ mới đủ dành dụm cho một cái xe trong khi tôi nằm nhà dài dài chưa tìm ra việc làm. Mọi chi phí trông mong vào chị Ba, chị là người may mắn sớm kiếm ra việc làm trước nhất.
Càng nặng gánh gia đình bao nhiêu, chị Ba càng có những lời oán trách về người bảo lãnh bấy nhiêu. Tôi không muốn kể về những buồn phiền lúc chúng tôi ở trong nhà anh Hai. Có lần tôi vô ý nhắc đến anh Hai, Chị Ba gắt lên: "Đừng nhắc đến ảnh nữa" Đủ biết là chị giận anh Hai đến chừng nào. Nếu còn ở chung với gia đình anh Hai, chúng tôi đâu phải sống chung với lũ gián chuột trong căn chung cư. Bữa hổm tôi lỡ lời khen "Nhà anh Hai đẹp, rộng rãi với vườn tược chung quanh." Chị Ba nói liền "Nhà rộng chứ lòng không rộng." chị còn hấm hứ "Xứ lạnh, tình cũng lạnh luôn."
Tôi hết biết nói sao về sự căng thẳng của chị Ba và anh Hai. Ở chung với chị Ba, hẳn nhiên tôi nghiêng về phe của chị, xị mặt với anh Hai. Thỉnh thoảng kẹt lắm, tôi mới phôn gọi anh ấy đến đưa rước ba má tôi đi bác sĩ. Lúc chở ba má tôi về, anh Hai dúi cho tôi nắm tiền và nói "Cất đi, từ từ xài." Tôi phân vân khó xử, cầm tiền của anh Hai có nghĩa là tôi đang phản bội chị Ba. Mà không cầm tiền thì coi như khi dễ anh Hai. Tôi phải tính sao đây" Tôi chưa kịp nói gì, anh Hai đã vọt xe chạy biến. Từ đó tôi không còn hùa theo với chị Ba trách móc anh Hai nữa. Tôi giả bộ không nghe chị ấy nói gì, bởi tôi biết chị quá hụt hẫng về đời sống mới. Gánh nặng của bốn người trong một gia đình đổ trên vai chị, hỏi sao chị không cay đắng trong câu nói.
Ngôn ngữ là trở ngại lớn nhất trong cuộc sống của chúng tôi. Không có nhiều vốn liếng tiếng Anh, Chúng tôi kiếm việc ở các hảng xưởng, chị Ba được thu nhận vào hảng may trước tôi vài tháng. Chị ấy giỏi giang lắm. Ở Việt Nam, chị Ba chỉ biết may quần áo vớ vẩn, lọc cọc cái may may đạp chân có sợi dây chằng vòng theo khung bánh xe ở gầm bàn máy. Thế mà khi qua xứ Canada, chị có thể thích ứng mau chóng với cái máy may công nghiệp chạy nhanh vù vù như tốc độ xe ở highway. Chỉ sau vài tuần huấn luyện, chị Ba đã có thể nhận làm khoán sản phẩm. Điều đó có nghĩa là làm nhanh thì mới có tiền. Tất nhiên, chị cũng phải tập tranh giành với đồng nghiệp lấy hàng may, "Nếu không làm dữ, có nước ăn cháo đó Tư ơi!" Đấy là lời chị kể lại với tôi mỗi khi còn hai chị em với nhau trong phòng. Chị không dám thuật lại cho ba má tôi nghe về những bắt nạt hà hiếp nơi chỗ làm.
Không tìm được việc, tôi nằm nhà luyện phim mất mấy tháng. Chị Ba giới thiệu tôi vào hãng may chị đang làm khi có đợt đặt mua quần áo rầm rộ. Nếu hãng không cần người một cách cấp bách, chắc tôi đã bị đuổi việc ngay tuần đầu tiên bởi vì tôi không biết may! Lúc bà cai supervisor hướng dẫn tôi tập xử dụng máy may. Cái máy chạy nhanh quá, mũi kim đột xuống rào rào không ngừng nghỉ, tôi hoa cả mắt, không biết lúc nào giử kềm miếng vải, lúc nào buông tay ra, tôi luống cuống suýt đưa ngón tay vào máy. May sao bà Cai ngừng máy kịp thời, chỉ cần chậm một giây thôi, gửi tôi đi bệnh viện là cái chắc. Bà cai hoảng vía với cái tai nạn hụt này của tôi nhưng vì quá thiếu người, tôi vẫn được mướn. Thế là tôi được điều sang khu vực cắt chỉ và đóng gói, là công đoạn cuối cùng của sản xuất. Bởi đó, trong lúc người ta rửa tay chuẩn bị ra về, tôi vẫn còn phải làm cho xong việc. Tôi đành phải đứng phía cuối đoàn người xếp hàng dài thoòng trước cái đồng hồ bấm thẻ. Hỏi sao tôi có thể rời chỗ làm sớm như chị Ba được.