Hôm nay,  

Thư Cho Em Trai Nhân Ngày Father S Day

17/06/200600:00:00(Xem: 256932)

Người viết: NGUYỄN HỮU THỜI

Bài số 1036-1645-358-vb170606

*

Trước 1975, Nguyễn Hữu Thời là nhà giáo, Quân nhân QLVNCH. Hiện giúp việc cho hãng Sypris Data Systems Los Angeles. Ông là tác giả đã góp bài viết về nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên và không ngừng khích lệ cổ võ mọi người thân tham gia giải thưởng. Bài mới nhất của ông là thư của người chị gửi em trai kể về ông Bố,  được dành cho Ngày Quân Lực VNCH, đồng thời cũng là Father’s Day.

*

New York ngày 12 tháng Sáu năm 2006

Em Tùng thân mến,

Chiều qua, em điện thọai hỏi chị ngày Father s Day năm nay gia đình chị dự định đi nghỉ ở đâu. Chị chưa kịp trả lời em thì đường dây bên kia có người gọi đến, chị xin lỗi tạm "hold" và khi nói chuyện lại  với em thì máy đã cúp. Có lẽ em vội đi đâu, chờ lâu không được. Em có biết ai gọi chị hôm qua không" Ba đấy. Ba từ Cali gọi qua, và Ba có hỏi thăm các em.

  Chị nhớ lại hồi Mẹ mất vì đạn pháo của Cộng quân vào làng mình năm 1972, em mới lên năm, Tú ba tuổi, chị mưòi. Thế mà hôm nay đã 34 năm trôi qua rồi nhỉ " Hôm ấy, bà ngoại đánh điện ra đơn vị báo tin cho Ba. LúcBa xin phép đơn vị trưởng về đến nhà thì Me đã được chôn rồi. Miền Nam nắng tháng Bảy nóng lắm! Không thể để thi hài Mẹ lâu chờ Ba về được. Lúc về nhà, Ba nói đơn vị đang hành quân sâu trong vùng Hạ lào nên xin phương tiện trở về hậu cứ thật khó khăn. Phải chờ. Thêm nữa, trận chiến đến hồi khốc liệt, ông không thể bỏ đơn vị, chiến hữu trở về ngay lo cho Mẹ được. Chị đưa Ba ra  viếng mộ phần Me; nhìn Ba thẫn thờ, nước mắt lưng tròng khi khấn vái, nói gì trước mộ Mẹ, và chị nghe thoang thoảng có tên em, tên chị, tên Tú. Bỗng chị bật khóc thành tiếng. Ba xoay người lại vỗ về an ủi chị. Cái hình ảnh và những lời nói của Ba hôm ấy, nay vẫn còn in rõ mồm một trong tâm trí chị. 

 Ở nhà với chúng ta chỉ được mấy hôm, Ba lại phải ra đi, ông hối hả trở lại chiến trường; gởi gắm chị em mình cho bà ngọai. Tháng Tư năm 1975, đạn pháo Cộng quân lại rót vào làng mình, lần nầy khủng khiếp hơn, tàn khốc hơn, người chết và bị thương nhiều hơn, nhưng may mắn chị em mình và bà ngoại thoát nạn. Lần nầy, Cộng sản chiếm giữ luôn làng, và Ba cũng biệt tích đi từ năm đó. Chị cứ tưởng Ba đã ra đi vĩnh viễn theo Me!

Chị em mình côi cút, sống quây quần bên bà Ngoại. Bao gian khổ, đói lạnh, khó khăn lúc ấy, không giấy bút nào viết ra được hết. Bây giờ, ngồi hồi tưởng lại chị thấy rùng mình, và ghê sợ, khiếp đảm quá em ơi!.  Nếu không có bà Ngoại ra tay che chở, nuôi nấng, đùm bọc thì chúng ta đâu có ngày gặp lại Ba phải không em"

Tháng Sáu năm 1984, chị đang sắc thuốc cho ngọai bỗng nghe tiếng gõ cửa dồn dập, chị chạy ra mở, và nhìn thấy một người đàn ông quần áo rách nát, da bọc xương, đen điu, tay trái ôm cái gói nhỏ, thân hình tiều tụy nhưng tiếng nói sang sảng:

-Xin lỗi cô. Đây có phải nhà bà Nhung không."

Chị giật mình, hình như chị nghe giọng nói nầy quen thuộc từ thuở nào, và như có môt sợi dây vô hình, thiêng liêng buộc chị vào người đứng đối diện. Chị đóan đúng là Ba rồi; nhưng để cho chắc hơn, chị lên tiếng hỏi:

- Bác có phải là ông Tứ không ạ"

Bỗng Ba la lên:

- Trời ơi! Quỳnh! Con gái của tôi! Sao con ra nông nỗi nầy, sao con gầy thế, các em đâu"

Thế rồi hai cha con ôm nhau khóc. Ba cho biết, Ba từ trại tù Cộng sản về đây. Tháng Tư năm 1975, Ba bị họ bắt tại mặt trận, và đem giam ngòai Bắc cho đến bây giờ. Ba về nhà được mấy tháng thì bà ngoại qua đời.

Rồi như em đã thấy, Ba lăn xả vào làm những công việc lao động cực nhọc nhất, và chia xẻ bao đắng cay với chúng ta! Năm 1986, Ba đã đem chúng ta vượt biên đến được miền đất tự do nầy.

Chị thuật lại sơ lược những chuyện đã xảy ra cho gia đình mình từ ngày Mẹ mất để em rõ phần nào những nỗi  truân chuyên gian khổ, những lo lắng bao bọc, những cô đơn trống vắng, những hy sinh cao cả  của  Ba cho chúng ta. Lúc đó, em còn quá nhỏ nên chưa ghi nhận hết những hệ lụy đã xảy ra cho Ba, cho chúng ta, và cho gia đình mình.

 Trước năm 1975, tuy Ba có những ngày phép ngắn ngủi trở về nhà; nhưng Ba đã đem đến cho chúng ta bao niềm vui chan chứa, bao ấm no, bao tự do, bao hạnh phúc. Cuối tháng Tư năm 1975, Ba biệt tích.... Bà ngoại thì đã quá già đâu còn xoay xở làm ăn gì được nữa, và chúng ta đã đói khổ, đã rách rưới, đã bị khinh rẻ, đã bị ném ra ngòai lề xã hội như thế nào, em cũng đã rõ. Bây giờ, có người thường bảo hãy quên đi dĩ vãng và chỉ nghĩ đến hiện tại, tương lai, nhưng dĩ vãng của chúng ta khi những năm còn sống dưới chế độ Cộng sản là quá đau thương, là quá chua xót, là qúa bất công, làm sao chị quên được, em! Những hy sinh, những chịu đựng gian khổ của Ba để cho chúng ta có  được ngày hôm nay, có tự do, có học vấn, có nhà cửa, có việc làm, có một cuộc sống đầy đủ, có gia đình riêng tư, không bị chèn ép, không bị bóc lột, và đặc biệt được luật pháp bảo vệ...

Công ơn trời biển ấy, chị có đâu quên được. Nếu không có Ba liều chết, chắt bóp, góp nhặt, thu xếp đem chúng ta vượt biển năm ấy, thì thử hỏi chị em mình bây giờ sẽ ra sao! Chắc chị sẽ phải lấy một ông Đài loan, ông Nam hàn, ông Mã lai, ông Tân gia ba; tuổi đáng cha chú mình hoặc kẻ  dị tật để mong thóat ra được nước ngoài hầu hy  vọng có một cuộc sống khá hơn; nhưng không chắc chắn gì phải không em" Còn em sẽ chạy xe ôm hay xin làm công nhân cho bọn tư bản Á châu, tư bản Đỏ, lương không đủ sống, bữa đói, bữa no, hàng ngày còn  phải chịu bao sự đàn áp, bao sự bóc lột của bọn chủ, và bọn cầm quyền mà chưa chắc đã được yên thân.

Thư nầy để trả lời câu hỏi của em "Ngày Father’s Day năm nay gia đình chị đi nghỉ vacation ở đâu"" Chị sẽ đem gia đình về thủ đô tỵ nạn Cộng sản ở Little Sàigòn thăm Ba, chị sẽ thu xếp rước Ba ra khỏi nursing home, và mời Ba về ở với gia đình chị cho đến cuối đời;  để chị có dịp phụng dưỡng, chăm sóc sớm hôm cho Ba, mong làm tròn chữ hiếu của người con, hầu trả một phần nào công ơn sinh thành, dưỡng dục và cảm ơn Ba đã đưa chị em chúng ta thoát khỏi cái gọi là "Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam" để có một cuộc sống tốt đẹp hôm nay.

Thư bất tận ngôn. Cầu chúc vợ chồng em và các cháu được an bình.

 Thân mến

Nguyễn Lê Đông Quỳnh
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,345,312
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến