Hôm nay,  

Giao Thừa Xa Xứ Nhớ Má

06/02/200600:00:00(Xem: 124289)
Người viết: XYZ

Bài số 930-1530-254-vb8020506

*

Tác giả tên thật là Phạm Đình Ninh, 60 tuổi, cư dân Los Angeles. Bài viết về nước Mỹthứ nhất của ông là “Anh đã mừng đưa em sang đây”. Bài viết thứ hai, như tựa đề, được viết vào đúng lúc giao thừa Tết Bính Tuất.

*

“Thưa Má ...!

Dù con có làm tới Ông Này Ông Nọ,

dù con có được sống tới răng long tóc bạc …,

con cũng vẫn chỉ là thằng Cu Cùi của má thôi,

Má ơi …!”.

XYZ

Giao thừa năm nay sao tui nhớ Má tui quá! Nhớ nhiều lắm ! Trời ơi ...!

Nhớ lại, trước bảy-lăm, gia đình tui cũng thuộc loại có máu mặt ở cái thành phố đó - nghĩa là cũng “ như ai" chớ bộ!

Biến cố bảy-lăm là "một-cuộc-đổi-đời-thô-bạo-quay-ngược-một-trăm-tám-mươi-độ", đã khiến bao gia đình trong đó có gia đình tui bị nhiều mất mát, rồi dần dần sa sút đến tận cùng, thiếu chút nữa là phải đi ăn mày cả nhà! Bấy giờ anh chị em tui mới thấy được cái sức chịu đựng bền bỉ với lại đức tính hy sinh vô bờ vô bến của Má mình. Từ cương vị là một Bà Chủ, Má tui đã "đổi đời"... rớt xuống một cái đụi thành cái bà bán củ mì nấu, thành cái bà bán bắp luộc, thành cái bà bán ve chai -- bao nhiêu chai lọ hũ hỏng, bao nhiêu bịch nylon nhôm nhựa, bao nhiêu giấy má sách báo cũ... Má đều gom lại thành từng nhúm, loại nào ra loại nấy, rồi chờ người đến mua với giá rẻ thua bèo -- vì đó chỉ là đồ phế thải thôi mà. Anh em tụi tui cứ ráng kèo nài: "Thim ít chục ...! Thim ít chục ...!”; mà Má thì hiền quá, lại nói: "Thây nó bay! Được đồng nào hay đồng nấy. Được nhiu hay nhiu. Của đổ đi hốt lại đâu đủ, bay...!".

Ngày Má qua đời, tui còn nhớ như in.

Buổi sáng hôm đó, như thường lệ, tui dẫn thằng con đi học. Vừa đến cổng trường thì nhỏ Út Ét -- em tui -- hớt ha hớt hải phóng xe đạp tới, nó vừa nhảy xuống vừa níu xe lại, giọng lắp bắp:

- Anh Ba ơi, zề … zề … gấp! Chân Má bắt … bắt … đầu lạnh, tái … tái … nhợt rồi …!

-Má!

Tui kêu lên một tiếng rồi cứ thế mà cắm đầu cắm cổ chạy về nhà như kẻ mất hồn. Em tui phóng xe theo, nói lớn:

- Anh lên xe em chở đi nhanh hơn chớ!

Sực nhớ ra, tui leo lên ngồi sau xe rồi hối nó: “Đạp nhanh lên ! Đạp nhanh lên …!”.

Tui nhảy xuống khi xe chưa dừng, rồi tất tả chạy đến cạnh giường Má. Luồn tay vào ngực Má, tui nghe da Má lạnh tanh (tui không còn nhớ là tim Má lúc đó có còn đập hay không). Ba tui ôm hai vai Má. Anh chị Hai và mấy em tui thì kẻ nắn tay người vuốt chân cho hình hài Má thẳng thuốm ra. Chợt nhìn thấy hàm răng giả của Má cạnh đó, tui nhanh tay gắn vào rồi khép miệng Má lại. Ba vuốt mắt Má lần cuối, như thể không muốn cho Má thấy cái gia cảnh túng bấn mà cha con tui phải tiếp tục gánh chịu, để Má yên lòng mà thanh thản ra đi. Ba lặng lẽ khóc, nước mắt Ba rơi lã chã xuống ngực Má. Anh chị Hai và mấy em cũng lặng lẽ khóc. Còn tui thì cố nén lòng, nuốt nước mắt vô bụng. Tui khóc trong lòng. Lòng tui quá xót xa như đang bị chà muối xát ớt vậy. Tui đau lòng nhìn chăm chăm vào mặt Má như muốn chụp giữ lại gương mặt Má lần cuối cùng. Sau bảy-lăm, nét mặt Má trở nên khắc khổ nhanh quá, những nếp nhăn và dấu chân chim đã rõ nét. Vợ tui thì chăm chút vuốt ve từng sợi tóc rối của Má. Con Út Ét thì rưng rức khóc, mếu máo gọi “Má ơi ...! Má ơi ...!”. Cả nhà lặng lẽ khóc là vì tất cả đã từng theo dõi sự thăng trầm bệnh tình của Má bấy lâu nay rồi. Nói phải tội, có lúc bấn quá lại cho là Má bệnh … “giả đò”.

Bác sĩ nói với tui là Má bị ung thư gan và dặn tui đừng cho ai trong nhà biết. Cứ lo thuốc thang cho Má, cứ “còn nước còn tát”. Má thích cái gì thì ráng mua cho Má cái nấy. Má thích ăn món gì thì cứ chìu ý Má. Mà Má có ăn được miếng nào đâu, cứ đút vô miếng nào là nó tự động ra lại miếng nấy. Thấy mà rơi nước mắt. Thiệt tội Má quá chừng! Thỉnh thoảng tui pha trò cho Má vui. Có lần tui cõng Má đi lên đi xuống thang lầu. Vui quá, Má cười ra tiếng. Tui diễu:

- Bi giờ con chưa mua được xe hơi thì con làm ngựa chở Má đi chơi nghen!

Má bật cười lớn tiếng rồi mắng yêu:

- Cha mày, Thằng Cùi…!

Cả nhà có phần hài lòng là, trước lúc mất chừng một năm Má còn đi đứng được, anh em tui lo đưa Má đi mổ mắt cườm. Và Má đã có thể thấy rõ mọi người mọi vật trong nhà …

Mà thôi, tui hổng dám ca cẩm nữa đâu vì tui cảm thấy mắt tui cay cay rồi.

"Thưa Má…! Cũng như mười hai cái Tết trước đây, Tết năm nay tụi con và các cháu các chít đâu còn dịp khoanh tay mừng tuổi Má để được Má lì xì nữa đâu, vì Má đã bỏ Ba con, bỏ tụi con, bỏ cháu chit mà về với Ông Bà Tổ Tiên rồi, Má ơi...!. Chúng con cầu xin Hương Hồn Má luôn được siêu thoát, luôn được thanh thản. Xin Má phù hộ cho Ba con với các con các cháu các chít của Má, Má nghen!”.

Nhân đây, con xin gởi đến Má bài viết về Mẹ của thằng cháu Nội của Má -- mà hồi đó Má vẫn thường hay kêu nựng là "thằng chó con của Bà". "Thằng chó con" đó đã viết bài này hồi nó học lớp Bốn Việt ngữ bên này, mà khi rời quê nhà nó chưa học hết lớp Hai ở bển. Bài này được dán trên bảng sinh hoạt của Gia đình Phật Tử tại Chùa gần nhà con:

Mẹ

“Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Tại sao người đời lại nói rằng tình thương của Mẹ như nước trong nguồn chảy ra" Em không có chắc chắn là em biết câu trả lời cho câu hỏi này, nhưng mà em biết là dù một người con có làm gì có lỗi hay sai trái, lòng thương của người Mẹ ấy cho người con không bao giờ thay đổi hay là hết. Sau đây em sẽ lấy Mẹ của em để giải thích câu “Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Mẹ của em rất là bận rộn. Buổi sáng thì Mẹ đi làm, buổi tối thì Mẹ phải lo nấu ăn dọn dẹp. Dù Mẹ em có mệt mỏi cách mấy, Mẹ em cũng vẫn ráng mà làm tại vì Mẹ em biết em học hành rất là khổ cho nên Mẹ em lo làm hết. Đã bận như vậy mà Mẹ em vẫn còn có thể giành thời gian để dạy dỗ em. Dù Mẹ em không rành tiếng Anh nhưng Mẹ em vẫn ráng giúp em làm bài. Vì Mẹ thương em và muốn em nên người cho nên Mẹ mới khổ như vậy. Dù em có làm gì sai và chọc tức Mẹ, Mẹ em vẫn chịu khổ như vậy để nuôi lớn em.

Những câu ở trên chỉ là diễn tả Mẹ của em thôi. Còn nhiều người Mẹ khác sẽ còn hơn thế nữa. Tất cả người Mẹ đều chứng minh rằng “Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Con kính tặng Má,

Hiếu

(Mùa Vu Lan 2000)

Dì Nhung của cháu đọc được bài này trong cuốn Đặc San Liên Trường Qui Nhơn. Trong một lá thư Dì ấy gởi cho vợ chồng con, có khúc như zầy:

"Em nhận được cuốn Đặc San Liên Trường anh chị gởi cho em vào một ngày thật đặc biệt anh chị ạ! Đó là Ngày Của Mẹ -- Mother's Day. Và sung sướng hơn nữa là được đọc bài của cháu viết về Mẹ của mình. Cháu thật giỏi, mới học lớp Bốn mà đã có ý niệm về Mẹ rồi.

...

Riêng cháu, Dì cũng cám ơn cháu đã nghĩ đến Mẹ mình mà viết lên bài "Mẹ". Cháu đã viết từ tấm lòng bé thơ chân thật, từ suy nghĩ đơn sơ mộc mạc mà thật chí tình đó cháu ạ!".

Ngày Lễ Vu Lan năm đó, vợ chồng con đi lễ Chùa. “Hai chó con của Bà” được gắn Bông Hồng Đỏ; còn vợ chồng con thì bị gắn Bông Hồng Trắng. Tụi con đã bật khóc, khóc không ra tiếng mà nước mắt vẫn ràn rụa, Má ơi...! “Hai chó con của Bà” ôm chặt cứng vợ chồng con, mà năn nỉ ỉ ôi với giọt ngắn giọt dài:

- Ba Má đừng khóc nữa...! Tụi con sợ lắm...!

*

Tui lại bùi ngùi nhớ tới mấy câu hát ru con của Má hồi bả ru thằng Cu Út, rồi thằng Út Thêm, lại con Út Nữa, cuối cùng là con Út Ét. Ngoài mấy câu mà ai cũng biết là:

Công Cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa Mẹ trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ Mẹ kính Cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Má còn ru mấy câu này:

Ru con, con hỡi, con hời ...

Công Cha như núi ngất trời,

Nghĩa Mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng, nghe con!

Má còn nhiều câu hát ru con nữa -- nghe hay hay, nghe ngồ ngộ lắm -- mà nay tui hổng thể nhớ hết được. Tiếc quá hà!

Còn Cô tui thì … “quậy” lắm, ai đời cổ ru zầy:

Dzân Tiên cõng Mẹ đi ra,

Đụng phải cái cột nhà, cõng Mẹ trở zô.

Dzân Tiên cõng Mẹ trở zô,

Tông phải cái bồ, cõng Mẹ đi ra.

Cứ thế, cổ ru đi ru lại nhiều lần khiến mấy nhóc tì kia mê mùi mê mẫn, rồi ngủ ngon lành hồi nào hổng hay, lại còn khoe cái tật ... “đấm dài” nữa chớ! -- Thiệt tình!

À, một trong những cái thích dễ thương nhất và chân chất nhất của Má là --từ khi tui học tiểu học cho đến khi tui đi lính rồi đi tù về-- lúc nào thấy tui quanh quẩn bên mình là Má biểu tui đờn bài Khúc Hát Ân Tình cho Má nghe, dù Má chẳng biết một lời nào hay một câu nào của bài ca ấy cả. Má nói:

- Sao tao thích cái điệu nhạc tằng … tắng … tăng … đó quá! -- Đơn giản vậy thôi!

Còn nhiều, còn rất nhiều mẫu chuyện lớn nhỏ về Má tui -- vui cũng có, buồn cũng có -- để rồi tui sẽ kể sau, nhe!

XYZ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,300,820
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến