Tác giả sinh năm 1937, hiện là cư dân San Jose. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là một tự truyện kể về người tình và người chồng cũ.
*
Tôi quen Đ vào cuối mùa xuân năm 1965. Qua thư tín Đ là lính, lính đúng nghĩa. Lúc đó tôi viết theo điạ chỉ quân bưu (kbc). Đ cho tôi biết đang ở Vũng Tàu theo khoá học ngành truyền tin, vài tháng sau ra trường Đ được đổi về Sài Gòn làm việc ở trại Cửu Long-Thị Nghè. Kể từ đó chúng tôi lần lần thân nhau.
Lúc đó tôi ở nhà người anh họ ờ đường Trần Quang Khải thay mặt anh chị tôi quản lý một cửa hàng, làm nhiệm vụ cashier vì anh chị tôi có cơ sở làm ăn ở quê nhà thuộc tỉnh Cần Thơ thỉnh thoảng mới về thăm. Trong gia đình lúc ấy rất là vui, các cháu tôi vào tuổi trung học và đại học. Cô cháu chỉ chênh lệch năm bảy tuổi, cho nên rất là thông cảm nhau. Trong nhà chúng tôi còn thêm một người thư ký rất tận tụy trung thành mà mọi người đều quí mến kính trọng như thân nhân. Chú ấy tuy có tuổi nhưng sống biết hoà đồng với người tre.
Trong khung cảnh gia đình ấy, Đ thường lui tới nhà tôi chơi và được cả nhà coi như người thân. Thế rồi ngày tháng trôi dần, tình bạn giữa chúng tôi đi lần đến tình yêu. Đ và tôi đã có những ngày tháng đẹp bên nhau.
Vào thời gian ấy, Đ cùng các bạn có thuê chung một căn nhà nhỏ trong xóm nghèo bên Thị Nghè, gần trại Cửu Long. Nơi đó, chúng tôi đã cùng nhau có những bữa cơm đạm bạc mà vui. Bé và Gia, giờ đây các em ở đâu" Chị vẫn còn nhớ hai em. Lòng tôi còn đầy ấp biết bao là kỷ niệm của ngày xưa cũ ấy!
Còn nhớ, khi Đ bị thuyên chuyển ra tận An Thới Phú Quốc, lòng tôi buồn vô hạn, tới mức không nói nổi bằng lời. Có thể cho tới tận bây giờ Đ chưa hiểu hết trong sâu thẳm của lòng, tôi đã tự nguyện sẵn sàng hy sinh, kể cả mạng sống của mình, để đi cho trọn cuộc đời mình với ước thề ấy!
Những ngày ở Phú Quốc Đ viết biết bao cánh thư ân tình thắm đượm cho một bức họa dệt mộng cho tương lai hai đứa, những cánh thư tha thiết thủy chung thường xuyên bay về với tôi, tôi tin tưởng ở Đ với lòng tin tuyệt đối. Chúng tôi có chung một ước mơ nhỏ bé, đơn giản: chỉ cần một mái ấm vợ chồng hôm sớm có nhau không cần giàu sang, danh vọng.
Đ đi Phú Quốc ngày 20 tháng 5 năm 1968 thì cuối năm ấy hôn lễ của chúng tôi cử hành với sự chấp nhận của cha mẹ hai bên.
Thế rồi một năm sau con gái tôi chào đời. Cháu ra đời trong sự mong ước lẫn với niềm vui mừng của cha mẹ và ông bà ngoại. Vì tôi là con một cho nên tiếng cười hoặc tiếng khóc của cháu đều đem đến cho ông bà ngoại một niềm vui êm diu hơn bao giờ hết. Ông bà rất cưng yêu cháu.
Hai năm sau, giữa năm 1971 thêm một cháu trai ra đời. Gái giống mẹ, trai giống cha. Hai cháu rất dễ thương, gái nhanh nhẹ, trai bụ bẫm, tôi rất toại lòng với ước mơ. Lẽ ra lúc đó tôi nên gởi cháu cho ngoại và nhờ người trông coi để trở lại với việc làm, bởi lẽ cháu là đứa con đầu lòng cưng quá không tin tưởng người khác nuôi nên tôi nghỉ việc ở nhà trông con. Vì không đi làm được nên hoàn cảnh thiếu trước hụt sau trăm bề!
Vì Đ là lính cho nên không nơi nào ở lâu và cố định từ Phú Quốc về Bình Thủy rồi Sài Gòn đến Nha Trang. Vào những ngày tháng bi thảm nhất của cuộc chiến, đơn vị sau cùng của Đ là HQ 17. Trước khi đáo nhiệm đơn vị mới, cuối tháng 3 năm 1975, Đ có về thăm mẹ con tôi được vài ngày, lúc ấy quê tôi cũng không yên, tôi phải di tản đến một nơi an toàn hơn Huyện Ô Môn. Gần kề ngày Đ phải ra đơn vị, lòng tôi trĩu nặng âu lo, sợ hãi, như có một linh cảm chẳng lành nào đó sẽ đến với mình!
Mẹ con tôi tiễn Đ ra bến xe đò Ô Môn, trên khoảng đường ngắn tiễn đưa tôi muốn dặn dò Đ một câu, chỉ một câu thôi, dù cho cuộc chiến có thế nào đi nữa, anh còn sống hãy cố gắng tìm về với mẹ con em, vì em luôn luôn mong đợi anh về. Nếu cần chết mình cùng chết bên nhau. Như tôi nói đoạn trên, tôi chỉ viết được chứ không nói được, thế cho nên lúc đó bờ môi tôi như tê dại, lòng tôi thì nghẹn ngào không dám nói một câu chẳng lành ấy để thêm xót xa buồn trong dạ làm đau lòng kẻ ở người đi. Viết đến đây dĩ vãng như quay về hiện hữu trước mặt tôi lòng còn nghe quặn thắt niềm đau như mới đưa tiễn người thương hôm nào! Một chuyến đi định mệnh đã mất nhau rồi còn buồn nào hơn" Rồi bạn bè tôi nói hay Đ đã chết" Tôi có vững niềm tin Đ còn sống, chỉ đang ở một gốc trời nào đó thôi. Tôi nghỉ trong tình chồng vợ có một sự thiêng liêng quyền bí mà mình có thể cảm nhận đúng trên năm mươi phần trăm sự việc.
Năm đầu tôi rất buồn rầu trong nổi chán chường thất thỉu chơi vơi như chim lạc bầy, tinh thần xuống dốc sức khoẻ suy yếu tưởng chừng không đủ sức chịu đựng vượt qua khoảng đời gian nan ấy. Lúc đó tôi cũng chưa buồn lo đến chuyện áo cơm, bởi ông bà ngoại tuy nghèo nhưng đủ nuôi hai cháu cơm ngày hai bữa ấm no, nhất là cho hai cháu tình thương yêu trọn vẹn, nên hai cháu đỡ tủi thân trong lạc loài. Ông bà có mảnh vườn nhỏ, có hàng cau xanh, có luống trầu vàng, có hàng dừa lả ngọn che mát cạnh dòng sông hiền hoà.
Nhìn con trẻ ngây thơ ở tuổi đời non dại và nghỉ đến tương lai của hai cháu rồi sẽ về đâu" Sáng sủa hay đen tối" Một phần trách nhiệm là do tôi lèo lái một con đò! để chuyên chở những ước mơ bé nhỏ từ khi tôi mới bước chân vào đời để xây dựng gia đình khi ấy các cháu chưa tượng hình, nghỉ đến đó tôi thêm nghị lực và can đảm hơn. Thế rồi bắt đầu từ đó tôi xui ngược tảo tần bươn chải làm chim mẹ tha mồi nuôi con.