Hôm nay,  

Một Mai Thiếp Có Xa Chàng

21/05/200500:00:00(Xem: 136242)

Người viết: NTJ
Bài số 751-1330-97-vb5190505

Tác giả sống và làm việc tại San Jose, đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ. Bài viết mới lần này của bà là một truyện kể mang tựa đề trích từ câu ca dao nhiều chất ngậm ngùi:
Một mai thiếp có xa chàng
Đôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin...
*

Ngày xưa khi thương chàng, Mỵ Nương chỉ biết yêu hết lòng hết dạ mà không đòi hỏi. Rồi khi Trương Chi mở lời cầu hôn thì gật đầu ưng thuận bởi vì chữ Yêu. Song thân Mỵ Nương ngỡ ngàng khi có mối tới hỏi Mỵ Nương cho Trương Chi, cứ ngỡ con mình chưa biết yêu thương.
Trước kia không biết bao nhiêu là mai mối mà Mỵ Nương cứ lắc đầu không ưng thuận, biết phải trả lời sao khi con mình đã thương con trai người ta. Mỵ Nương gật thì ông bà gật không đòi hỏi thách đố lễ cưới. Sau khi nhà gái ưng thuận thì Trương Chi cũng vỗ về rằng "thương em thì mẹ và anh cũng sẽ ráng mà làm lễ cưới xin dù hèn cũng thể để cho em và cha mẹ vui lòng".
Vốn là gia đình hiền lành cho nên khi nghe Mỵ Nương thỏ thẻ thì song thân cũng mát dạ. Đến ngày lễ hỏi vỡ lẽ ra rằng chỉ là lời hứa trăng hứa cuội của ba má chồng. Trương Chi cũng vắng mặt trong ngày lễ hỏi, chỉ có ba má chồng và mấy anh em con cháu trong ngày lễ hỏi của Mỵ Nương. Mỵ Nương ngán ngẩm trong lòng vì sính lễ quá tệ hại thì ít mà ngán ngẩm vì lòng người ăn nói ngược ngạo thì nhiều.
Mấy ngày mất ăn mất ngủ vì không biết phải tính sao, thương thì vẫn thương mà giận thì vẫn giận, đời người con gái bị chồng sắp cưới dối gạt về lễ vật như vậy thật là não lòng. Bà má chồng cười cười nói nói coi như là cưới Mỵ Nương là ban phước cho nàng.
Thấy con gái buồn bã, hiểu con đang ngậm bồ hòn. Mẹ ruột là người nhân đức không biết làm khó ai nên khuyên con như vầy "Thây kệ nó con, sau này ra nước ngoài sống rồi thì kể như yên thân, mẹ mừng khi biết con không phải sống gần ho.ï"
Bởi vì gia đình Mỵ Nương đang tính kế bỏ trốn khỏi quê hương, thấy Trương Chi chạy trốn trong ngày lễ hỏi vì không muốn đối mặt với hôn thê, Mỵ Nương biết rằng sau này đời mình cũng sẽ khốn nạn vì bà má chồng này thôi.
Nửõa thương nửa giận, muốn bỏ luôn lễ cưới để mà đi ra khỏi quê nhà, đi khỏi người chồng nói một đàng mà làm một nẻo nhưng mà nghe mẹ khuyên cho nên lễ cưới cũng tiến hành. Vả lại chữ tình còn tràn trề ra đó.
Lễ cưới chỉ có cặp đèn cầy cưới cũ của đứa em chồng, căn phòng hoa chúc không chiếu mới, không mùng mền, mà chiếc chiếu cũng hôi hám. Vốn tin dị đoan nên Mỵ Nương nhìn căn phòng hoa chúc của mình mà ngao ngán. Nếu không nghĩ đến cha mẹ thì đêm đó Mỵ Nương đã bỏ nhà chồng mà về nhà mình rồi.
Trương Chi xem thường tình nghĩa của Mỵ Nương nên cả nhà Trương Chi cũng xem thường Mỵ Nương như vậy. Thương Trương Chi thì có thương nhiều nhưng Mỵ Nương cũng còn cha mẹ, làm mất mặt Mỵ Nương như vậy là mất mặt cha mẹ của Mỵ Nương.
Nhưng rồi thời gian nào cũng là liều thuốc tiên, chuyện buồn giận rồi cũng qua, tuổi trẻ mau quên, hạnh phúc bên người chồng mới khiến Mỵ Nương quên tất cả những giận hờn.
Rồi vợ chồng rời bỏ quê hương, theo cha mẹ vượt biên, lênh đênh trên biển cả 7 ngày gian nan hụt chết. Trong lòng Mỵ Nương đã rửa sạch bao giận hờn, qua xứ người làm lại từ đầu, ai mới qua cũng phải làm lại từ đầu.
Hơn năm trời ở trại tỵ nạn, mang cái bầu vừa qua đã phải đập bầu, rồi nuôi con, rồi học hành. Tất cả đã quay cuồng cuộc đời của đôi vợ chồng trẻ. Má chồng tuy xa mà vẫn lại là gần, thơ ở VN qua tới tấp. Mỗi lá thư là mỗi lần Trương Chi gây gổ với vợ, không thỏa mãn về quà cáp nên ông anh chồng và cô em gái hùa vào nói xấu Mỵ Nương. Bà má để cho con mình nói, ông anh chồng và cô em gái sống bám vào mẹ, vì muốn làm vui lòng mẹ nên không tiếc lời nói xấu em dâu cũng chị dâu. Anh chồng mắng đứa em dâu "đưa người cửa trước rước người cửa sau" còn đứa em chồng thì nào là "Chị Mỵ Nương lộng hành ăn hiếp chồng, có bao nhiêu tiền cất giữ để nuôi cha mẹ ruột cho nên anh Trương Chi không có tiền gởi về" và còn rất nhiều chuyện mà Mỵ Nương và cha mẹ bị bên chồng bêu xấu.


Không ai biết vợ chồng Mỵ Nương sống ra sao. Ngày vợ chồng đi học, tối về vợ chồng đi lau chùi văn phòng, đứa con mới sinh ẵm nằm trong góc, cha hút bụi mẹ lau bàn, đổ rác, chùi cầu. Bởi vì nơi họ mới đến là một vùng miền đông không có trợ cấp của chính quyền, tiền làm chỉ vừa đủ trả nhà và đồ ăn bán sale, vợ chồng mặc đồ cũ của nhà thờ. Mỵ Nương cắt quần áo cũ người lớn để may quần áo cho đứa con mới sinh, vẫn tiếp tế quà cáp bên nhà tuy không lớn lao nhưng cũng giúp đỡ phần nào cho gia đình, nhà cửa cũng được xây thêm, cất cao hơn, tốt hơn.
Bên này vợ chồng Trương Chi sanh thêm con, miệt mài đi cày, con đem gởi ông bà ngoại, các con lớn và ngoan ngoãn, ăn cơm Việt nói tiếng Việt. Ông bà ngoại có trợ cấp nhà, trợ cấp tiền già, bỏ công nuôi cháu. Cha mẹ của nó chiều về rước con cũng ăn chực nhà ngoại để rồi cha mẹ nó dành dụm tiền mua nhà và cũng tiếp tế cho bên nội. Vậy mà ông bà ngoại và con dâu đều bị bên nhà chồng đem ra bêu xấu đến nỗi cả một tỉnh nhỏ ai cũng nghe, cũng biết.
Phần bên ngoại ai nói gì thì nói vẫn thương cháu như vàng như ngọc và thương rể như thương con trai ruột bởi vì "nó không có cha mẹ ở gần" và "bởi vì nó thương con gái của mình". Mỵ Nương nghe lời mẹ mỗi khi giận thì ra công niệm Phật mong phép nhiệm màu hạ được cơn phẫn nộ trong lòng.
Một phần tư thế kỷ sống ở xứ người, con cái khôn lớn, vợ chồng mua nhà, cuộc sống có phần thảnh thơi nhờ ở được căn nhà rộng rãi nhưng vẫn chưa là quyền sở hữu.
Rồi má chồng, em chồng lần lượt cũng qua. Trương Chi không phải bận tâm vấn đề tiếp tế được vài năm, nhưng bà má chồng tuy tuổi cũng đã xấp xỉ bát thập nhưng sức sống và sự ham muốn tràn trề như một nam nhi. Ở với con gái, tiền già trợ cấp còn nguyên, bà mang về xứ mua đất đai nhà cửa, rồi nhu cầu của bà cũng tăng theo đồng đôla, mua một không đủ mà phải mua hai.
Trương Chi ở Mỹ đã lâu, có nhà có cửa anh phải báo hiếu, mở miệng hỏi con thì khó, mà trong lòng thì cứ muốn của cho nên Mỵ Nương là cái đinh của bà. Mỵ Nương không đáng để hưởng những gì của Trương Chi có, bà từng tuyên bố là bà cưới Mỵ Nương cho Trương Chi là may mắn, chớ mà có lạy bà cũng không cưới. Nay thì cái quyền làm mẹ của bà bộc phát.
Bao nhiêu năm chung sống với chồng, hiểu chồng từng chút, Mỵ Nương biết rằng chỉ có má chồng mình mới đáng kể trong lòng Trương Chi. Má chồng vui thì chồng vui, má chồng buồn thì chồng buồn, cái hạnh phúc của Mỵ Nương tùy thuộc vào má chồng nhiều quá. Mỵ Nương là một người vợ nết na đảm đang làm ra tiền. Cũng như Trương Chi nàng cũng phải đáng được hưởng tình yêu của chồng chớ.
Ngày xưa khi mới lấy nhau Trương Chi không hiểu Mỵ Nương, suy nghĩ cho tận cùng Mỵ Nương nghiệm ra rằng má chồng mình còn thì mình mất, mà đứa em thứ mười đã từng nói "vợ thì dễ kiếm còn mẹ thì không." Nói gì Mỵ Nương cũng chịu đựng được nhưng Trương Chi phải biết cái tình nghĩa của Mỵ Nương, ít ra Trương Chi cũng không nên để chuyện xảy ra như ngày đám cưới. Nhưng Trương Chi không nghe và hoàn toàn không nhận xét được gì cả, chuyện cũ tái diễn.
Vẫn thương Trương Chi đứt ruột nhưng thôi thì đành trả Trương Chi về với má của anh. Trương Chi cũng thương vợ con nhiều lắm nhưng tình mẹ con anh em hơn tình phu thê, thì thôi cũng đành vậy.
Căn nhà đang ở và đang trả nửa chừng bán bo. Vốn liếng cũng như mái nhà của Mỵ Nương gãy đổ tan tành. Số tiền bán nhà chia làm hai, một số tiền nhỏ Mỵ Nương bỏ vào công để tằn tiện lo cho con ăn học, nửa số tiền anh Trương Chi gởi để báo hiếu mẹ già, còn lại chút đỉnh cũng đủ cho anh về VN cưới vợ khác.
Tiền đô Mỹ đã làm cho đám cưới lần thứ nhì của Trương Chi rình rang. Bà mẹ cưới vợ cho con lần này hãnh diện vô song, nhìn vào ai cũng thèm muốn, ông anh chồng và đứa em chồng hài lòng ra mặt. Linh hồn cha của Mỵ Nương nay ở dưới suối vàng hẳn bây giờ cũng biết và ông hẳn cũng ngậm ngùi thương cảm cho đứa con gái đẹp đẽ nết na mà ngày còn sinh tiền ông đã từng cưng chìu.
Mỵ Nương thẫn thờ nước mắt thi nhau rơi trong lòng khi nghe tin Trương Chi cưới vợ. Đã biết trước chuyện sẽ xảy ra như vậy nhưng Mỵ Nương vẫn cầm lòng không được, đâu ai hiểu được chữ tình đầy đau thương và chữ nghĩa đầy cay đắng như vậy.
Mở ngăn tủ cạnh đầu giường lấy tấm hình đen trắng, cô dâu cười nép vào chú rể họ nhìn hạnh phúc, tuy là tươi cười nhưng nhìn kỹ hơn hình như có lệ long lanh trong ánh mắt.

NTJ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,307,615
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới, tựa đề được đặt lại theo nội dung.
Mai Hồng Thu là tên Việt của tác giả Donna Nguyễn/Donna Nguyen. Với ba bút danh này, cô đã từng góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Sanh tại Sài Gòn, sang Mỹ năm 1985, hiện là cư dân San Jose, California, tác giả đã dịch thuật và xuất bản 3 tập truyện ngụ ngôn dành cho thiếu nhi của Thornton W. Burgess dưới bút danh Nguyễn Nhã Đan Na (Nguyễn Donna). Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh tại chỗ do chính ông chụp. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách "Xin Em Tấm Hình" và tập truyện mới, "Bắc Kỳ". Sau đây là bài mới ghi chép sơ lược ngày 30 tháng Tư năm xưa.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ. Bài mới của ông, tuy không phải chuyện nước Mỹ nhưng là chuyện trong lòng người Việt tị nạn cộng sản tại Mỹ thường nghĩ tới, được viết về việc Saigon bị đổi tên với lời ghi trân trọng: Để kỷ niệm 30 năm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư trên đất Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Tampa, Florida, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài Gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện... Bài viết mới của ông mở đầu bằng câu “Đôi khi tôi nghĩ, viết về một nơi chốn khác, cũng là một cách Viết Về Nước Mỹ.” Cách viết đối chiếu chi tiết tinh tế của tác giả cho thấy không chỉ đúng như ông nghĩ mà còn làm hiện rõ cả tính cách người (hơi hơi) Mỹ gốc Việt.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Maui là hòn đảo du lịch nổi tiếng của Hawaii. Du ký vui được cùng viết bởi “Ba Bà Ca Li”, ba tác giả thân quen với bạn đọc Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Tác giả là một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, sinh trưởng ở Bếntre, sang Mỹ năm 1973, đã về hưu từ lâu và đang định cư ở Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, được chấm giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông viết về bà Mẹ hơn 100 tuổi và tâm trạng tế nhị, phức tạp của người con khi cầu nguyện cho Mẹ thân yêu.
Nhạc sĩ Cung Tiến