Hôm nay,  

Sóng Biển

14/03/200500:00:00(Xem: 125311)

Người viết: TRỌNG ĐẠT
Bài số 701-1279-50-vb7-031205
Trong Đạt là tác giả đã có một số tác phẩm biên khảo văn học và tiểu thuyết xuất bản. Ông hiện là cư dân Arlington, Texas. Bài viết thứ tư ông góp với giải thưởng viết về nước Mỹ là truyện kể về một nhà thơ trẻ của miền Nam chết trên đường vượt biển. Trọng Đạt ghi thêm: “Viết để riêng tặng những kẻ đã chết trên con đường đi tìm Đất Hứa”

Hầu như cuối tuần nào cũng vậy, khi màn đêm vừa buông xuống là tôi lại vội đến thăm ông bạn chí cốt ở gần nhà để hàn huyên tâm sự, bàn bạc những vấn đề thời sự chính trị, văn chương. . Độ này chúng tôi hay bàn chuyện văn thơ, nghệ thuật, những buổi tọa đàm như vậy đã giúp chúng tôi giết thì giờ trong cuộc sống tha hương buồn tẻ. Người Việt ở đây cũng khá đông, bạn bè bà con cũng nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy một sự lạc lõng, bơ vơ có lẽ vì nó không phải là đất nước của mình, xa xứ khá lâu nhưng mỗi lần tỉnh giấc tôi vẫn biết rằng mình đang sống tại một nước non xa lạ với những lối sống, tập quán mà đối với tôi cũng vẫn còn xa lạ, và vẫn có cảm tưởng như mình vẫn chưa hoàn toàn hội nhập được vào xã hội mới. Những buổi đàm luận ấy cũng thật bổ ích vì khi trao đổi ý kiến, nó cũng mở mang tầm hiểu biết của chúng tôi hơn lên.
Tối nay, một tối mùa đông giá lạnh, tết tây đã qua, tết ta gần kề, năm nay hên, ngoài trận tuyết mong manh hôm nọ người ta không phải nếm cái mùi băng giá thấu xương như năm ngoái. Ngoài các chợ Á Đông, chợ Việt, chợ Tầu. . hàng tết đã bầy đầy cả ra từ mấy tuần trước, thôi thì đủ thứ nào bánh chưng, bánh tét, dưa món, kẹo, mứt, cây quất, cành mai, hoa đào, hoa cúc . . người mình cũng nô nức mua sắm hàng tết đón xuân, mặc dù ai cũng cố quay lại với truyền thống dân tộc tổ tiên nhưng nó cũng không tránh khỏi cái vẻ lạc lõng như một thứ vui gượng vì tất cả đang nằm giữa một thứ ngoại cảnh, một nước non xa lạ. Ông bạn cũng đã mua sắm được một ít bánh mứt, hạt sen, trà tầu. . đem ra đãi khách cho có chút hương vị dân tộc quê hương trong những ngày năm tận, ông pha trà mời tôi nhấm nháp rồi đưa cuốn sách mới mượn ở thư viện ra bảo:
-Cuốn này viết về văn học miền Nam, phần tiểu sử các tác giả đầy đủ lắm, nhiều tác giả không có tên tuổi gì cũng được đề cập rất đầy đủ chi tiết, một người bà con tôi là nhà văn ít ai biết thế mà ông soạn giả này cũng biết rất rành, tôi lấy làm lạ, ông ấy lấy tài liệu ở đâu mà biết rõ thế"
Tôi cầm cuốn sách ngắm nghía một lúc, xem sơ mấy trang rồi dở phần tiểu sử ở cuối ra xem, lật qua lật lại . . bỗng tôi dừng lại ở một trang rồi lẩm nhẩm đọc.
Trần Đại, sinh tại Bắc phần năm 1941, vào Nam năm 1954. Dạy đại học. Sau 1975, mất tích trên đường vượt biển tị nạn chính trị. Chuyến đi khởi hành ngày 2-10-1978.
Tác phẩm: Con đường (tựa của Vũ Hoàng Chương, 1963)
Tôi bèn đọc lớn cho ông bạn nghe rồi bảo.
-Chắc đúng là anh bạn tù cải tạo cùng tổ với tôi hồi 1975, 76, 77. . anh này có dạy ở một trường đại học Đà Lạt, cỡ tuổi tôi, được về sớm, mấy người cùng trại với tôi nói anh chàng đi vượt biên mất tích cả gia đình từ 1978. Hồi ấy không nghe anh nói đã viết sách, nhưng các chi tiết khác đều đúng hết.
Tôi cứ tấm tắc khen ông soạn giả thật là kỳ tài, biết rõ cả chuyến đi vào ngày nào tháng nào nữa, mình là bạn anh ta mà cũng chỉ biết loáng thoáng thôi. Ông bạn bèn hớp một ngụm trà tầu đang bốc hơi nghi ngút rồi chép miệng than.
nhiêu tinh hoa của đất nước đã bị chôn vùi dưới đáy biển!
Từ đấy tôi cứ thắc mắc, ưu tư về cái tên Trần Đại mãi, nhớ hồi chàng được về hơn một năm, chúng tôi chuyển trại khác, một người bạn thân của Đại tên Bình có nói với mọi người ngoài bãi lao động.
-Trời ơi! Đại tốt lắm, anh chị có lại thăm vợ tôi, cho vợ tôi mượn một ngàn đồng, tôi đã viết thư dặn vợ tôi nếu anh ấy muốn mượn bất cứ cuốn sách gì cũng cho anh ấy mượn.
Rồi tự nhiên tôi lại tò mò đi điều tra xem có đúng người trong cuốn sách này là anh bạn tù xa xưa của tôi không y như một nhà thám tử đi điều tra một vụ án . Tôi bèn tìm hỏi Bình hiện đang sống tại Mỹ cho Bình biết chi tiết trong cuốn sách, anh ta đáp.
-Vậy thì đúng hắn rồi! Đại có ra một tập thơ, anh ấy tốt nghiệp cao học ở Đà Lạt, đậu thủ khoa được nhà trường giữ lại để giảng dậy. Sau có làm cho bộ văn hóa, xã hội. . gì đấy. Hồi anh ấy sắp đi vượt biên có cho vợ tôi mượn một ngàn đồng, một ngàn hồi ấy lớn lắm, mỗi lần thăm nuôi tụi mình chỉ có mấy chục hay một trăm thôi. Nói đến anh ấy bà xã tôi xúc động lắm, em của Đại hiện ở Mỹ.
Thế là cuộc điều tra của tôi coi như hoàn tất, đúng là hắn, người ấy là anh! Và rồi trong ký ức tôi Đại tự nhiên sống dậy y như một cuốn phim cũ nay được đem ra chiếu lại.
*
. . . Tôi nhớ lại hồi 1975, công chức chúng tôi ra trình diện cải tạo được đưa lên trại Long Thành, năm đầu có một số đợt thả về khá đông nghe nói Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Định ăn hối lộ đã cho những người chạy tiền về trước. Chừng một năm sau trại đượïc chuyển giao cho Bộ nội vụ, cái thòng lọng ngày càng xiết chặt, sau nhiều đợt chuyển tù công chức cao cấp và trung cấp đi Bắc, chúng tôi còn vài trăm người được giữ lại, dọn nhà hai ba lần và sau cùng ở một căn nhà rộng bằng gỗ gọi là nhà 13.
Đại ở chung đội rồi chung tổ với tôi, không thân lắm nhưng tôi có cảm tình với hắn vì tính hiền lành, Đại hay đùa dỡn trêu chọc tôi, có lần cáu quá tôi la lối hắn um cả lên, thế mà hôm sau hắn lại vui vẻ vỗ vai tôi bảo:
-Tớ có chọc gì cậu đâu mà cậu la tớ dữ vậy, tụi nó chọc cậu mà sao cậu không la tụi nó, cậu lại la tớ!
Đại y như ông Bụt vậy, không biết giận biết ghét ai bao giờ, hắn thích trêu chọc tôi nhưng chỉ đùa vui chứ không bao giờ có ác ý. Ngoài bãi lao động chàng hay kể chuyện vui, có khi bàn chuyện kinh tế ngoài xã hội, Đại có vẻ người hiểu biết.


Tôi còn nhớ một buổi chiều tối, hồi ấy tù còn được tự do thoải mái. Tôi và chàng pha trà ngoài sân kể chuyện ngày xưa, chàng thích kể lại những ngày còn giảng dạy ở trường đại học ở Đà Lạt và có vẻ tiếc nhớ cái thời vàng son của mình.
Chúng tôi cải tạo được hơn hai năm thì bỗng có đợt thả về khoảng mười sáu người đa số có bảo lãnh hoăc quá trình nhẹ, không liên hệ đến an ninh chính trị là mấy, Đại may mắn có tên trong danh sách đợt này. . Thế rồi hơn một năm sau chúng tôi chuyển trại đến một khu rừng âm u, nhân một buổi lao động Bình có nhắc đến Đại, khen anh là người bạn tốt đã cho vợ Bình mượn một ngàn đồng để thăm nuôi chồng, sự thực Đại muốn để lại cho bạn số tiền lớn ấy trước khi lên đường đi tìm Tự do và Đất hứa. Trước khi ra đi chàng còn làm được một việc tốt cho xã hội, còn giúp được một người bạn tù.
Được thả về giữa cái xã hội nghèo đói sơ sác, đâu đâu cũng chỉ thấy toàn là những cảnh áp bức hăm doạ, bắt bớ ghê sợ. . của công an cảnh sát, Đại không còn cách nào khác hơn là phải tìm cách thoát thân ra khỏi vũng lầy. Hồi ấy người ta đổ sô nhau tìm đường xuất ngoại, ai nấy thu vét tiền bạc trong nhà để nạp cho bọn tổ chức hy vọng thoát thân tới được bờ bến mới.
Và rồi vào chuyến đi ngày 2-10-1978 . . chàng đã cùng gia đình lênh đênh qua cửa Cần giờ. . . Theo thống kê cũng như lời xác nhận của dân tỵ nạn, số người bỏ xác trên đường vượt biển phần lớn là do hải tặc Thái Lan đâm chìm tầu, chúng cướp bóc hãm hiếp, bắt đàn bà con gái rồi đâm chìm tầu để phi tang.
Thế rồi tôi lại mường tượng ra cảnh biển cả rộng mênh mông bát ngát, một con tầu gỗ mỏng manh lềnh bềnh trôi trên làn sóng, rồi trận phong ba bão táp nổi lên hay tầu hải tặc sông tới cướp bóc hãm hiếp rồi đâm chìm thuyền tỵ nạn, tôi mường tượng ra cảnh chàng và bao nhiêu người khác đang cố vùng vẫy trên mặt biển. Bản năng tự vệ sinh tồn khiến con người phải cố sức chống lại cái chết đến cùng dù chỉ là để sống thêm được một vài giây phút nữa, để rồi cũng từ từ chìm sâu dưới làn nước biếc . .
. . . . Tất cả không còn gì trừ sóng biển. .
Đại dương mênh mông bát ngát đã chôn vùi không biết cơ man nào mà kể những kẻ bất hạnh đi tìm Đất Hứa. Biển cả đã chôn sâu cái hy vọng cuối cùng của đời chàng, của hàng nghìn, hàng vạn những người tỵ nạn khác, của những kẻ đã chết trên con đường đi tìm Tự do và Đất hứa, chết trên con đường đi tìm tự do cũng vẫn còn sướng hơn làm nô lệ. Biển cả cũng đã chôn vùi biết bao tinh hoa của đất nước, biết bao người tài trí đã bỏ nước ra đi và cũng đã có biết bao người không hẹn ngày về.
Hôm được trả tự do, các bạn tù vẫy tay chào Đại và mười mấy người khác bước lên xe vận tải, bọn ở lại nhìn những kẻ diễm phúc bằng cặp mắt thèm thuồng tuy trong lòng có chút mừng thầm cho họ, ngày trở về của chàng tươi đẹp và hạnh phúc biết bao.
. . . Ngày trở về anh bước lê trên quãng đường đê đến bên lũy tre, nắng vàng hoe vườn rau trước hè chờ đón người về . . .
Chàng đã ra khỏi trại giam và còn phải ra khỏi nước, trại giam là nhà tù nhỏ, đất nước, xã hội là nhà tù lớn. Chàng xây dựng nhiều mộng đẹp, lập lại cuộc đời mới ở xứ tự do, ở miền Đất Hứa, những giấc mộng đẹp và rực rỡ như nắng mùa hè. .
Thế rồi tất cả ước mơ, hy vọng của chàng chỉ là những toà lâu đài xây trên bãi cát, những ảo tưởng vĩ đại, những mơ mộng hão huyền của kẻ tuyệt vọng đi tìm Đất hứa. Biển cả đã chôn vùi mộng đẹp của chàng, của muôn vạn kẻ bất hạnh cùng đường tuyệt vọng khác.
Đối với các nhà nghệ sĩ, biển cả thật là mỹ miều thi vị dưới những tên thật là gợi hình, bóng bẩy, nào là Biển Nhớ, Hoàng Hôn Trên Bãi Biển, Bãi Biển Nương Dâu. . .nhưng đối với bọn thuyền nhân khốn khổ đi tìm tự do, biển cả mênh mông chỉ là mối nguy khốn hãi hùng cho họ, một hình ảnh vĩ đại bao la bát ngát kinh hoàng vì nó đã từng chôn vùi biết bao sinh linh vô tội, nhiều người đã định cư tại bờ bến mới mấy chục năm nhưng mỗi lần nghĩ lại họ vẫn còn rùng mình ghê sợ.
Thế rồi tuần sau, tôi lại đến thăm ông bạn vào một ngày năm cùng nguyệt tận, tối ấy nhiều người đã lên chùa, đến nhà thờ để chuẩn bị đón Giao thừa. Thế là lại thêm một cái Tết nơi đất khách quê người, rồi lại xuân tha hương. . tuổi đời cứ chồng chất thêm trên mái tóc, ngày tận cùng của đời người cứ từ từ tiến lại.
Tối nay ông bạn bầy một bàn tiệc nhỏ để đãi người tri kỷ: một đĩa bánh chưng đã cắt làm nhiều miếng, một bát dưa món, mấy đĩa mứt sen, mứt gừng, mứt bí. . một chai rượu nho mầu chiều tím. . gọi là có chút hương vị quê nhà trong mấy ngày thiêng liêng dân tộc. Khi ấy tiếng hát thanh tao dịu dàng của cô ca sĩ bỗng vang lên trong máy ngoài phòng khách.
Em như cô gái hãy còn xuân
Trong trắng thân chưa lấm bụi trần
Xuân đến hoa mơ hoa mận nở. .
Để mở đầu buổi đàm luận tối nay, tôi nói cho ông ta biết Trần Đại, tác giả tập thơ Con Đường đúng là người bạn tù của tôi hai mươi mấy năm trước đây, ông bạn vừa rót rượu vừa ra giọng triết lý bảo.
-Thế gian như một cái quán trọ, con người chỉ là khách qua đường.
Chúng tôi nâng ly chúc mừng năm mới, uống xong một hớp rượu xuân tôi bèn thở dài đáp .
-Cuộc đời chỉ là giả tạo, cái chết mới là có thật! Ôi một đời người! sinh ra ở miền Bắc, lớn lên di cư vào Nam, học hành xuất chúng, làm giáo sư, công chức cho chính phủ. . rồi vào tù, được thả về, mang nhiều mộng đẹp, lên đường đi tìm Tự do, Đất hứa. . Biển cả đã chôn vùi cái hy vọng cuối cùng của đời chàng . . một đời người đã hết, chẳng còn một vết tích gì, chẳng để lại đến một mảnh xương tàn, chỉ còn lại một vài dòng tiểu sử trong một cuốn sách nói về văn học miền Nam.
Trọng Đạt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,384,021
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến