Người viết: TRỌNG ĐẠT
Bài số 701-1279-50-vb7-031205
Trong Đạt là tác giả đã có một số tác phẩm biên khảo văn học và tiểu thuyết xuất bản. Ông hiện là cư dân Arlington, Texas. Bài viết thứ tư ông góp với giải thưởng viết về nước Mỹ là truyện kể về một nhà thơ trẻ của miền Nam chết trên đường vượt biển. Trọng Đạt ghi thêm: “Viết để riêng tặng những kẻ đã chết trên con đường đi tìm Đất Hứa”
Hầu như cuối tuần nào cũng vậy, khi màn đêm vừa buông xuống là tôi lại vội đến thăm ông bạn chí cốt ở gần nhà để hàn huyên tâm sự, bàn bạc những vấn đề thời sự chính trị, văn chương. . Độ này chúng tôi hay bàn chuyện văn thơ, nghệ thuật, những buổi tọa đàm như vậy đã giúp chúng tôi giết thì giờ trong cuộc sống tha hương buồn tẻ. Người Việt ở đây cũng khá đông, bạn bè bà con cũng nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy một sự lạc lõng, bơ vơ có lẽ vì nó không phải là đất nước của mình, xa xứ khá lâu nhưng mỗi lần tỉnh giấc tôi vẫn biết rằng mình đang sống tại một nước non xa lạ với những lối sống, tập quán mà đối với tôi cũng vẫn còn xa lạ, và vẫn có cảm tưởng như mình vẫn chưa hoàn toàn hội nhập được vào xã hội mới. Những buổi đàm luận ấy cũng thật bổ ích vì khi trao đổi ý kiến, nó cũng mở mang tầm hiểu biết của chúng tôi hơn lên.
Tối nay, một tối mùa đông giá lạnh, tết tây đã qua, tết ta gần kề, năm nay hên, ngoài trận tuyết mong manh hôm nọ người ta không phải nếm cái mùi băng giá thấu xương như năm ngoái. Ngoài các chợ Á Đông, chợ Việt, chợ Tầu. . hàng tết đã bầy đầy cả ra từ mấy tuần trước, thôi thì đủ thứ nào bánh chưng, bánh tét, dưa món, kẹo, mứt, cây quất, cành mai, hoa đào, hoa cúc . . người mình cũng nô nức mua sắm hàng tết đón xuân, mặc dù ai cũng cố quay lại với truyền thống dân tộc tổ tiên nhưng nó cũng không tránh khỏi cái vẻ lạc lõng như một thứ vui gượng vì tất cả đang nằm giữa một thứ ngoại cảnh, một nước non xa lạ. Ông bạn cũng đã mua sắm được một ít bánh mứt, hạt sen, trà tầu. . đem ra đãi khách cho có chút hương vị dân tộc quê hương trong những ngày năm tận, ông pha trà mời tôi nhấm nháp rồi đưa cuốn sách mới mượn ở thư viện ra bảo:
-Cuốn này viết về văn học miền Nam, phần tiểu sử các tác giả đầy đủ lắm, nhiều tác giả không có tên tuổi gì cũng được đề cập rất đầy đủ chi tiết, một người bà con tôi là nhà văn ít ai biết thế mà ông soạn giả này cũng biết rất rành, tôi lấy làm lạ, ông ấy lấy tài liệu ở đâu mà biết rõ thế"
Tôi cầm cuốn sách ngắm nghía một lúc, xem sơ mấy trang rồi dở phần tiểu sử ở cuối ra xem, lật qua lật lại . . bỗng tôi dừng lại ở một trang rồi lẩm nhẩm đọc.
Trần Đại, sinh tại Bắc phần năm 1941, vào Nam năm 1954. Dạy đại học. Sau 1975, mất tích trên đường vượt biển tị nạn chính trị. Chuyến đi khởi hành ngày 2-10-1978.
Tác phẩm: Con đường (tựa của Vũ Hoàng Chương, 1963)
Tôi bèn đọc lớn cho ông bạn nghe rồi bảo.
-Chắc đúng là anh bạn tù cải tạo cùng tổ với tôi hồi 1975, 76, 77. . anh này có dạy ở một trường đại học Đà Lạt, cỡ tuổi tôi, được về sớm, mấy người cùng trại với tôi nói anh chàng đi vượt biên mất tích cả gia đình từ 1978. Hồi ấy không nghe anh nói đã viết sách, nhưng các chi tiết khác đều đúng hết.
Tôi cứ tấm tắc khen ông soạn giả thật là kỳ tài, biết rõ cả chuyến đi vào ngày nào tháng nào nữa, mình là bạn anh ta mà cũng chỉ biết loáng thoáng thôi. Ông bạn bèn hớp một ngụm trà tầu đang bốc hơi nghi ngút rồi chép miệng than.
nhiêu tinh hoa của đất nước đã bị chôn vùi dưới đáy biển!
Từ đấy tôi cứ thắc mắc, ưu tư về cái tên Trần Đại mãi, nhớ hồi chàng được về hơn một năm, chúng tôi chuyển trại khác, một người bạn thân của Đại tên Bình có nói với mọi người ngoài bãi lao động.
-Trời ơi! Đại tốt lắm, anh chị có lại thăm vợ tôi, cho vợ tôi mượn một ngàn đồng, tôi đã viết thư dặn vợ tôi nếu anh ấy muốn mượn bất cứ cuốn sách gì cũng cho anh ấy mượn.
Rồi tự nhiên tôi lại tò mò đi điều tra xem có đúng người trong cuốn sách này là anh bạn tù xa xưa của tôi không y như một nhà thám tử đi điều tra một vụ án . Tôi bèn tìm hỏi Bình hiện đang sống tại Mỹ cho Bình biết chi tiết trong cuốn sách, anh ta đáp.
-Vậy thì đúng hắn rồi! Đại có ra một tập thơ, anh ấy tốt nghiệp cao học ở Đà Lạt, đậu thủ khoa được nhà trường giữ lại để giảng dậy. Sau có làm cho bộ văn hóa, xã hội. . gì đấy. Hồi anh ấy sắp đi vượt biên có cho vợ tôi mượn một ngàn đồng, một ngàn hồi ấy lớn lắm, mỗi lần thăm nuôi tụi mình chỉ có mấy chục hay một trăm thôi. Nói đến anh ấy bà xã tôi xúc động lắm, em của Đại hiện ở Mỹ.
Thế là cuộc điều tra của tôi coi như hoàn tất, đúng là hắn, người ấy là anh! Và rồi trong ký ức tôi Đại tự nhiên sống dậy y như một cuốn phim cũ nay được đem ra chiếu lại.
*
. . . Tôi nhớ lại hồi 1975, công chức chúng tôi ra trình diện cải tạo được đưa lên trại Long Thành, năm đầu có một số đợt thả về khá đông nghe nói Uỷ Ban Quân Quản Thành Phố Sài Gòn Gia Định ăn hối lộ đã cho những người chạy tiền về trước. Chừng một năm sau trại đượïc chuyển giao cho Bộ nội vụ, cái thòng lọng ngày càng xiết chặt, sau nhiều đợt chuyển tù công chức cao cấp và trung cấp đi Bắc, chúng tôi còn vài trăm người được giữ lại, dọn nhà hai ba lần và sau cùng ở một căn nhà rộng bằng gỗ gọi là nhà 13.
Đại ở chung đội rồi chung tổ với tôi, không thân lắm nhưng tôi có cảm tình với hắn vì tính hiền lành, Đại hay đùa dỡn trêu chọc tôi, có lần cáu quá tôi la lối hắn um cả lên, thế mà hôm sau hắn lại vui vẻ vỗ vai tôi bảo:
-Tớ có chọc gì cậu đâu mà cậu la tớ dữ vậy, tụi nó chọc cậu mà sao cậu không la tụi nó, cậu lại la tớ!
Đại y như ông Bụt vậy, không biết giận biết ghét ai bao giờ, hắn thích trêu chọc tôi nhưng chỉ đùa vui chứ không bao giờ có ác ý. Ngoài bãi lao động chàng hay kể chuyện vui, có khi bàn chuyện kinh tế ngoài xã hội, Đại có vẻ người hiểu biết.