Hôm nay,  

Út Cưng Của Ba Vào Đời

03/07/200100:00:00(Xem: 164054)
Bài tham dự số: 02-287-vb0704


''Còn cha gót đỏ như son...''

Cũng như nhiều bé út khác, Út Chi được cả gia đình cưng ghê lắm, nhất là ba.
Nhớ ngày má mới sanh Út ra, ba đã cưng và hãnh diện về Út lắm rồi. Từ bênh viện về, ba hân hoan báo tin với mọi ngườI:
''Nè mấy đứa, em gái của tụi bay là hoa khôi đó nha.''
Mấy anh chị của Út ngạc nhiên hỏi lại ba:
''Hoa khôi gì vậy ba"''
''Thì 'hoa khôi em bé' của bệnh viện Saint - Paul đó. Tụi bay đến thăm em khỏi cần nói tên, cứ nói là muốn thăm em bé đẹp nhất là người ta sẽ dẫn tới đúng chỗ em tụi bay liền.''
Đúng như lờI ba, sau khi nói là muốn thăm ''em bé đẹp nhất,'' các anh chị được đưa đến chỗ Út Chi. ''Hoa khôi em bé'' dễ thương thật, đẹp như... Thúy Kiều: con mắt lá răm, chân mày lá liễu, cái miệng bé bé xinh xinh. Mấy anh chị xúm lại ngắm nghía ''hoa khôi'' mãi.
Ba là một người cha Việt Nam kiểu mẫu, rất nghiêm khắc với con cái. Nhưng đối với Út, ba ưu tiên lắm, ưu tiên đến nỗi mấy anh chị lớn, nhất là chị Bi, chị kế của Út, phải ganh tị. Chẳng hạn như, mấy anh chị của Út đều phải ''nếm mùi'' cái bảng đen và cái dây nịt của ba. Cái bảng đen ở phòng khách luôn luôn đứng sừng sững như một vị hung thần đối với các anh chị của Út, vì mỗi người đều phải làm bài tập của ba cho trên bảng, làm sai hoài thì sẽ bị ba... dộng đầu vô bảng. Còn dây nịt thì ''ưu tiên'' cho những ai bị điểm kém hoặc lười biếng. Riêng Út thì không hề phải nếm ''mùi vị'' của chúng, một phần vì Út học giỏi, nhưng phần lớn là tại ba viện cớ: ''Nó là Út mà.''
Còn môt luật rất khắt khe khác của ba là các con chỉ được ba gần gũi, nựng nịu cho đến năm bảy tuổI, rồi sau đó thì không được ''giỡn mặt'' nữa, nhưng Út thì vẫn được ba... gãi đầu mỗi tối cho đến khi ''lớn đại.''
Ba thường nói: ''Ba phải lo cho Út Chi học ra bác sĩ, rồi ba mới yên tâm nhắm mắt.'' Với đồng lương của một Trưởng Ty Thủy Lâm, ba đã lo được cho các anh chị lớn học hành thành tài, nên ba chắc chắn rằng Út của ba cũng sẽ trở thành Út bác sĩ.
30-4-75 ...
Mong ước của ba đã gần như sụp đổ cùng lúc với những mất mát, đau khổ chung của toàn miền Nam. Ba và má bị mất việc làm; cả nhà phải sống bằng tiền bán nữ trang của má.
Rồi đến thảm họa ''đổi tiền,'' một kiểu ''cướp ngày'' của Cộng Sản. Một lần, hai lần, rồi ba lần. Tài sản ba má dành dụm, chắt chiu trong nhiều năm đã bị những lần đổi tiền ''liếm'' mất một cách sạch sẽ, như câu chuyện ông thầy đồ đói khát đã dùng mưu liếm sạch đĩa mật trước mặt cậu học trò cả tin trong một chuyện dân gian. Ba má đau đớn nhìn các con, nhất là bé Út, rơi vào cảnh đói khổ, thiếu thốn.
Các anh chị lớn dều lần lượt lập gia đình và dọn ra sinh sống riêng, chỉ còn bé Út và chị Bi ở chung vớI ba má. Nhờ có vài công ruộng ở quê nộI, hai chị em Út vẫn no cơm ấm áo trong thời kỳ khó khăn đó. Ba sợ hai chị em Út không chịu được cuộc sống thiếu thốn ở miền quê, nên chỉ có một mình ba về quê lo làm ruộng. Đến mùa thu hoạch xong, ba phải gò lưng chở từng bao gạo mới, trắng tinh từ Bình Dương về nhà trên chiếc xe đạp cũ kỹ, ọp ẹp của ba. Tuy cực khổ nhưng ba rất vui vì cùng vớI bo bo, bánh mì , chị em Út đã có gạo trắng để ăn.
Mỗi lần chở gạo về nhà, ba không bao giờ quên chở thêm một trái mít cho Út, vì ba biết Út của ba mê ăn mít lắm. Vừa về đến nhà, không kịp nghỉ ngơi là ba đã lo xẻ mít ngay, mặc cho má cằn nhằn: ''Trời ơi, nghỉ ngơi một chút đi ông, làm gì mà gấp dữ vậy.'' ''Được rồi, tui phải xẻ liền cho con Chi nó ăn, chắc là nó thèm lắm rồi.'' Mùi mít thơm lừng bay khắp nhà, Út Chi sà xuống bên cạnh ba, mê say nhấm nháp những múi mít vàng lườm, ngọt như mật, và hơi mằn mặn vì đã thấm đẫm những giọt mồ hôi của ba.
Rồi cái ngày mà ba má luôn luôn mong đợi đã đến. Cả gia đình lên đường đến ''thiên đường hạ giớI.'' Nhưng ngày đó không có ba cùng đi với gia đình, vì ba đã đi đến thiên đường thật sự rồi. Cuộc sống đầy cực nhọc và lo toan từ sau cái ngày đen tối của cả nước đã làm cho ba phải ra đi vì chứng tai biến mạch máu não.
Như một câu tục ngữ đã nói, chị em Út bây giờ ví như một căn nhà không có nóc, không còn gì để che nắng che mưa. Từ đây, chính Út sẽ phải thay thế ba, lăn xả vào đời, trở thành ''breadwinner.''


Người anh lớn bảo lãnh gia đình qua Mỹ có những khó khăn riêng nên chỉ lo được cho gia đình trong nửa năm đầu. Má thì đã già yếu, còn chị Bi thì mặc dù rất thương má và em nhưng lại là môt cái ''kho'' chứa đủ thứ bệnh bẩm sinh, kinh niên, nên chỉ có thể làm ''mentor'' vỗ về và an ủi cho Út được thôi. Cả gánh nặng kiếm sống nuôi gia đình gồm ba người trong những năm đầu ở Mỹ đã đổ xuống vai của bé út ít nhất nhà.
Lúc đó, Út chỉ mới học xong trung học ở Việt Nam, và chỉ biết nói chút ít tiếng Mỹ, nên đâu dám đi xin việc ởû những hãng xưởng của Mỹ. Đầu tiên, Út đi làm waitress ''kiêm'' sai vặt cho một nhà hàng Việt Nam trong khu Phước Lộc Thọ. Bà chủ nhà hàng đó có cái vẻ ngoài giống như một bà phù thủy trong những chuyện cổ tích, dáng to lớn, có cặp mắt cú vọ và cái mũi rất cao và hơi quặp (có lẽ do bà đã đi sửa mũi quá nhiều lần chăng") . Không những chỉ có vẻ ngoài, bà đúng là hung thần của những ngườI làm công, nhất là đối vớI Út, một con bé luôn được sống giữa những người lúc nào cũng cưng chiều mình. Út thường hay bị mắng, nên chỉ thấy bóng của bà là Út đã chết khiếp. Với đồng lương chưa tới hai đồng một giờ, Út phải làm không ngớt tay từ sáng sớm đến tối mịt, có ngày phải làm liên tục 16 giờ. Những ngày lể, tết, việc rất nhiều, làm không kịp, nên vào những ngày này Út thường hay bị bà chủ mắng chửi. Trở về nhà, Út hay kể cho má và chị Bi nghe, và hai chị em ôm nhau khóc ròng. Má cũng khóc, vừa khóc vừa nhắc lại một điệp khúc thật buồn, ''Phải chi còn ba...''
Rồi bà phù thủy của Út đóng cửa nhà hàng vì bán ế quá. Út sợ nhà hàng lắm rồi, nghe đồn là làm cho quán cà phê vừa khỏe vừa có nhiều tiền nên Út xin vào làm ở một tiệm cà phê. Vì cũng xinh xinh nên Út được nhận, nhưng đến khi vào làm thì hỡi ôi!
Út thuộc loại ''cù lần,'' không biết chưng diện, đã vậy bao nhiêu tiền kiếm được Út đều phải nuôi gia đình, nên đâu còn tiền để mua sắm quần áo. Mỗi lần sửa soạn đi làm, Út rất khổ sở vì biết thế nào chủ cũng không hài lòng với cách ăn mặc của mình. Thêm nữa, Út chỉ biết nhõng nhẽo với ba, chứ đâu biết làm duyên, õng ẹo với mấy anh chàng vào quán để gặp ''ngườI đẹp.'' Vậy là Út lại bị mắng, bị đuổi.
Út còn làm nhiều chỗ nữa. Làm hãng, làm thư ký cho một computer store, chỗ nào cũng với đồng lương thật rẻ nhưng phải làm thật ''chăm.'' Trong những năm tháng cực khổ đó, chị Bi và Út thường ''động viên'' nhau: ''Thôi kệ, bây giờ mình ráng chịu cực đi rồi mai mốt ... chịu khổ.''
Nhưng không, ở một đất nước của tự do và cơ hội, những lờI nói đùa chua cay như vậy không được quyền và không thể biến thành hiện thực. Sau những năm dài cực khổ, làm full-time, học full-time, Út đã lấy được Associate, rồi Bachelor degree in Accounting, và xin được một chân kế toán ở thành phố nơi cả gia đình sinh sống, ''làm cho nhà nước Mỹ,'' như lời má nói.
Bây giờ thỉnh thoảng vẫn nghe má thở dài và nói ''Phải chi còn ba...,'' nhưng phần sau của điệp khúc đã hân hoan, thơ thới hơn nhiều, ''... để cho ba tụi bay nhìn thấy con Út, tuy không phải là Út bác sĩ, nhưng cũng đã tốt nghiệp đại học và cũng có 'good job' như ngườI ta.''
Má rất hãnh diện vớI ''go od job'' của Út, có ai hỏi là má nói ngay: ''Nó làm kế toán cho tòa thị chính của Mỹ đó, giống ba nó ngày xưa, cũng làm việc cho nhà nước...''.
Có lần, một người bà con nghe má nói Út làm ở ''toà thị chính'' đã hỏi má: ''Vậy mai mốt nó có được lên làm thị trưởng không"'' Sau đó, mỗi lần nghe má nói vậy, hai chị em nhìn nhau cười, và chị Bi lại chọc quê Út:
''Thôi bé lùn rán ''phấn đấu'' lên chức... thị trưởng đi cho má khoe luôn thể, chứ chỉ là kế toán thôi mà má cứ đem ''tòa thị chính'' ra khoe hoài hà ...''
''Nè, chị lùn, em hổng chịu chị cứ chọc em hoài đâu!''
Nhìn em mình ''nhõng nhẽo'' như một đứa trẻ, chị Bi sung sướng nghĩ: ''Rồi cũng có một ngày mình hết khổ, phải không bé lùn"”
Và, sau biết bao nỗi vất vả, đắng cay mà bé lùn phải chịu, chị Bi mừng thấy vẫn nguyên vẹn ở bé vẻ dễ thương, trong sáng và nũng nịu thời ''Út Cưng của Ba''.

Hè 2001
Nguyễn Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,679,638
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp một số bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả kỳ nầy nói về một đề tài khác là những niềm vui khi “chơi” facebook.
Đây là tự sự của một thành viên tham gia chương trình VVNM. Tác giả bắt đầu tập viết ở tuổi 70 (2015), trong thời gian hai năm đã vượt qua mọi khó khăn và đã đoạt được giải Danh Dự (2016) và giải Vinh Danh Tác Phẩm (2017). Tác Giả quê quán ở Bến tre, sang Mỹ năm 1973, môt chuyên viên kỹ thuật về hưu, đang định cư tại Orange County. Hiện ông vẫn tiếp tục viết với sức sáng tác mạnh mẽ.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà sinh năm 1951tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Joje từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Bài đầu tiên của bà, “Cả Đời Tôi Làm Thư Ký Sở Mỹ. Sau đây là bài viết thứ hai của bà.
Tác giả là trưởng ban Tuyển Chọn Chung Kết giải Việt Báo từ năm 2017. Tham gia Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, bà nhận giải chung kết VVNM 2001, với bài “32 Năm Người Mỹ Và Tôi” và vẫn tiếp tục viết. Bà hiện làm việc bán thời gian cho National-Interstate Council of State Board of Cosmetology (NIC) và là cư dân Westminster. Bài mới nhất là chuyện mấy bà mấy cô đi chụp quang tuyến để khám ung thư ngực.
Tác giả Hồ Nguyễn, cư dân Buffalo, NY. đã dự Viết Về Nước Mỹ từ hơn 10 năm trước Bài viết đầu tiên của ông là "Kinh 5 Dị Nhân" kể về vùng quê, nơi hơn 1000 người -phân nửa dân làng- vượt biên mà có tới hơn 400 người tử vong... Hiện ông đang là cư dân Orlando, FL. và bài mới là chuyện về một số người thành công, một đề tài mà ông đã được mời nói chuyện tại Đại Học Buffalo.
Anthony Hưng Cao là một Bác sĩ nha khoa, hiện hành nghề tại Costa Mesa, Nam Cali, từng nhận giải Tác Giả Xuất Sắc 2010,với hồi ký "My Life" chia sẻ kinh nghiệm học tập của ông. Ngoài nghiệp y khoa, ông còn là người viết văn, soạn nhạc và luôn tận tụy với sinh hoạt nghệ thuật, văn hóa, giáo dục. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả cùng 2 con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ, hiện có tiệm Nails ở Texas và lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bài viết mới của bà kể về nghề lái taxi tại Huế và người khách đặc biệt là một nhạc sĩ gốc Việt danh tiếng ở Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây là bài viết mới nhất.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017 và đây là bài viết thứ ba của ông. Ông tên thật Trần Thanh Hiền, sinh năm 1955 tại Thạch Hãn, Quảng Trị, định cư tại Tulsa, Oklahoma từ 1977. Sau 35 năm làm Engineering Designer trong ngành Safety Technology – Fire Protection (Kỹ Thuật An Toàn – Phòng Chống Lửa), đã về hưu năm 2015, khi vừa tròn lục tuần, hiện là thông dịch viên hữu thệ tiếng Việt cho Tulsa County District Court và làm thiện nguyện tại Tulsa Catholic Charities.
Nhạc sĩ Cung Tiến