Hôm nay,  

Trái Banh và Một Ước Mơ Nhỏ Lộc Trần

16/11/201400:00:00(Xem: 9923)
Tác giả: Lộc Trần
Bài số 4387-14-29787vb8111614

Tác giả 54 tuổi, cho biết cuộc sống thu gọn trong gia đình nhỏ bé với ba đứa con. “Chuyện Trái Banh...” là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.

* * *

Tôi sinh ra và lớn lên ở một thành phố thuộc vùng ven Sài Gòn. Quê tôi trải dài theo con sông Đồng Nai êm đềm quanh co uốn lượn với những vườn cây trĩu nặng trái theo mùa.

Những chiều không đi học, tôi thường cùng bạn bè vào vườn cây ăn trái, bắn chim bằng những trạc bật tự chế, rồi bắn bi, mùa dế thì đi săn dế về để đá, rồi tắm suối, tắm sông. Nhưng có một trò chơi lôi cuốn tụi nhỏ chúng tôi hơn hết là đá banh. Có được trái banh là chúng tôi chẳng còn quan tâm đến chuyện gì nữa, đá trong sân nhà đầy dất đá hoặc ngoài đường đi đầy xe cộ qua lại rất là nguy hiểm, dù cho cha mẹ, người lớn vẫn la mắng

Trường tiểu học của tôi khong có sân chơi. Ngôi trường được xây dựng trong một khu đất nhỏ bé. Bao bọc ba phía là các lớp học với tường vôi trắng xóa, còn lại một phía là tường rào giáp với đường đi có một cổng chính để ra vào. Với khoảng sân nhỏ hẹp, ở chính giữa sân là cây cột cờ cao ngất để chào cờ mỗi buổi sang, sân thì rải đầy đá cuội nhỏ, đi lên nghe tiếng lạt sạt vui tai. Mỗi lần ra chơi, học sinh chỉ đủ chỗ để tụm năm tụm ba tán gẫu.

Khi lên lớp sáu thì trường học có phần khang trang hơn một chút, nhưng sân chơi vẫn hạn hẹp. Tuy nhiên niềm đam mê của lũ nhóc chúng tôi vẫn không thay đổi, thậm chí có phần tang them. Sau giờ học, chúng tôi hay hẹn nhau ra sân nghĩa trang (nơi chôn người chết của các giáo xứ đạo), nơi có những khoảng đất trống chưa có người chôn, đầy cỏ dại, miểng chai, rác rến và thậm chí đôi lúc còn có những cây kim tiêm của những tay chơi xì-ke bỏ lại. Thế mà lũ nhóc chúng tôi vẫn chạy bán sống bán chết để giành lấy trái banh với đôi chân trần, vì sợ mang giày sẽ bị hư, bị bẩn và ngày mai sẽ không có giày để đi học, việc đó đồng nghĩa với việc sẽ bị phạt đứng ngoài lớp, hoặc tệ hơn là sẽ lên cột cờ đứng. Ngày đó nhà nghèo, hầu như đứa nào cũng chỉ có một đôi giày duy nhất

Có một lần thằng bạn tôi mải chạy thế nào mà đạp phải một cây kim, có lẽ là cây kim đâm lút thịt luôn. Cả bọn chúng tôi xúm lại nặn máu ra cho nó rồi mà nó cứ gào khóc thảm thiết vì nghĩ mình đã có thể bị nhiễm HIV. Bọn chúng tôi sau vụ đó cũng ít chơi ở nghỉa trang hơn, cả lũ cuốc bộ đi xa hơn một chút đến sân chơi của các anh lớn, và tất nhiên là chúng tôi chỉ được phép chơi khi các anh không có đá độ.

Thấm thoát thời gian trôi đi, chúng tôi dần lớn lên. Khi tôi chuẩn bị thi vào lớp mười thì gia đìng được giấy báo đi xuất cảnh. Trước hôm tôi đi hai ngày, lũ bạn cũ rủ rê nhau đá banh trận cuối với tôi, coi nhu là để chia tay luôn. Sân banh lần này là con đường xóm đã được tráng xi măng để tránh cảnh bị nước mưa xói mòn mỗi năm, hai bên là đường mương nay cũng đã được xây cao hơn tuy nhiên vẫn chưa có gì che lại nên nguy cơ trái banh của chúng tôi bay xuống đó vẫn rất cao.

Trời mùa hè nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, mà chúng tôi chẳng hề thấy mệt. Đứa nào đứa nấy đen trui trũi. Mỗi lần trái banh vô tình chọn hướng cái mương mà lao xuống, đứa nào cũng le lưỡi thấy ghê, nhưng sau khi nhặt lên, lăn lăn qua cát lại hồn nhiên đá tiếp. Cuối bữa hôm ấy là một chầu cóc dầm muối ớt vừa ăn vừa suýt xoa, đùa giỡn. Thế là tôi chia tay với lũ bạn thời thơ ấu.


Rồi cái ngày ấy cũng đến, máy bay đưa cả nhà rời xa Việt Nam. Tạm biệt quê hương, tạm biệt lũ bạn, tạm biệt tuổi thơ. Tôi cứ nhìn mãi, nhìn mãi cho đến khi Việt Nam chỉ còn là những mảng xanh mờ nhạt và vô định.

Ngày đầu tiên trên đất Mỹ, điều gây ấn tượng với tôi nhất là xe hơi, vì như mọi đứa trẻ, tôi cũng rất mê xe hơi. Xe chạy đầy đường, xe phơi đầy trên các sân thượng, xe đậu đầy trong các sân nhà và dọc những con đường bộ. Cảnh tượng thật khác lạ với quê tôi. Chỉ trong vài ngày là tôi đã thuộc lòng tên các loại xe, nước nào sản xuất chúng...

Gia đình tôi ở chung với ông bà ngoại khi chúng tôi đến Mỹ. Sau một đêm ngủ mê man thức dậy, buổi bình minh đầu tiên trên đất Mỹ. Nhìn ra cửa sổ là gì các bạn biết không, là sân cỏ. Sân cỏ nhà ông bà, rồi sân cỏ nhà hàng xóm, và xa một chút xíu là một công viên với sân cỏ trải dài.

Tôi chạy ào ra sân cỏ bằng đôi chân trần dù rằng tháng tám trời cũng bắt đầu se lạnh vào buổi sáng. Những cọng cỏ còn đẫm sương đêm mát lạnh dưới chân tôi. Tôi chạy tới chạy lui một cách khoái trí. Công viên lại còn có những trụ sắt để chơi bóng rổ nữa. Sau này chiều chiều tôi vẫn cùng anh em hay bạn bè ra đây chơi bóng.

Một tuần sau khi đến đất Mỹ, cậu tôi đưa mấy anh em đi đăng kí vô lớp học. Tôi lại một lần nữa bị choáng bởi sân chơi của các trường học bên Mỹ. ầy đủ các môn thể thao với sân cỏ rộng mênh mông, chạy thỏa thích, mệt nghỉ.

Rồi tôi cũng đi học highschool và làm quen với những người bạn mới. Trường tôi học khá đông bạn học Việt, có đứa thì ở Huế với giọng miền Trung đặc sệt, đứa thì ở Phan Thiết, đứa thì Sài Gòn, đứa dân Cà mau. Nhưng một khi chúng tôi nói tiếng anh thì chả còn ai nhận ra ai là người vùng nào cả.

Sau này, tôi cũng tìm cách gia nhập vào đôi banh của trường. Được bận áo đồng phục và mang dôi giày đinh ra sân banh là mơ ước của tôi từ thưở bé. Hôm đầu tiên thử giày và quần áo, tôi đã đi đi lại lại trước gương rất lâu. Tôi đã được thỏa sức chạy trên sân cỏ mà không cần phải lo sợ sẽ đạp trúng bất cứ vật gì có thể gây hại cho đôi chân của tôi.

Có một lần, thầy hướng dẫn của tôi hỏi: ở Mỹ em thích cái gì nhất?

Tôi trả lời mà chẳng cần phải suy nghĩ lâu: sân cỏ. Thầy tròn mắt với câu trả lời của tôi. Thầy đâu biết rằng có được một sân cỏ là nỗi khát khao, là niềm mơ ước của tuổi thơ tôi và các bạn tôi.

Lên đại học, tôi chẳng những đá banh, mà còn tham gia vào môn bóng rổ nữa. Chiều nào tôi cũng cùng nhóm bạn Việt Nam cùng phòng, lên sân của trường chơi đến mệt nhoài mới về phòng ăn uống, học bài và đi ngủ để rồi ngày mai thức dậy cho một buổi học mới.

Bây giờ tôi đã là sinh viên nắm cuối của trường đại học. Rồi tôi cũng sẽ rời xa trường, rời xa cái sân cỏ này để bước vào đời. Đứng giữa sân cỏ mênh mông, tôi nhớ về các bạn Việt Nam ở cái tỉnh lẻ quê nghèo của tôi. Tuổi thơ chúng tôi đã không có được một sân chơi đầy đủ. Tuổi thơ chúng tôi đã trôi qua trong những khó khăn, nhọc nhằn và sự tằn tiện. Bây giờ mà có một điều ước, tôi sẽ ước cho tất cả lũ bạn tôi có mặt ở đây để chúng tôi được đá banh với nhau một bữa cho thỏa thích. Tôi nhớ quá, nhớ về làng quê, về ban bè, nhớ về một thời thơ ấu của tôi. Mãi mãi tôi không bao giờ quên.

Lộc Trần

Ý kiến bạn đọc
26/11/201402:04:00
Khách
chuyen that de thuong. Hay song voi nhung uoc mo don so hien hoa gian di em nhe. Tuoi tre se qua va chang bao gio tro lai. Cam on em da nhac nho lai thoi hoa mong xa xua cua toi. Viet hay lam, mong em hay tiep tuc viet khi ranh roi nhe.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 4,958,641
Bồ Tùng Ma là bút hiệu của Nguyễn Tân. Trước 1975, ông là Hải Quân Trung Tá VNCH. Sau đó là 10 năm tù cộng sản, và định cư tại Mỹ theo diện H.O. Ông từng nhận các giải bán kết Viết Về Nước Mỹ 2001, giải Việt Bút 2008, và từ 5 năm qua, là thành viên "Ban Tuyển Chọn Chung Kết" Giải Viết Về Nước Mỹ. Bài sau đây trích từ báo xuân Việt Báo Tết Giáp Ngọ 2014, không viết về nước Mỹ, mà về một loại ký ức sâu đậm của nhiều cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hoà trong trại tù cộng sản.
Tác giả: Lê Như Đức, sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Learjet, Wichita. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con - hai gái, một trai.
Khôi An, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2013, từng là một thuyền nhân. Từ tuổihọc trò, cô cùng người em gái phải rời bố mẹ, vượt biển năm 1983. Mười năm sau,1993, cô đã là một kỹ sư đại diện Intel đi “bàn giao kỹ thuật” cho các kỹ sư bảnxứ tại phân xưởng Intel ở Penang, Mã Lai.
Với bài viết “Lời Cám Ơn Của Mẹ Tôi”, kể chuyện bà Mẹ 90 tuổi thiđậu Quốc Tịch Mỹ, Nguyên Phương đã nhận giải đặc biệt Viết Về NướcMỹ 2007. Tại Việt Nam trước 1975, bà là một dược sĩ. Vượt biển,định cư tại Mỹ từ 1982, bà làm việc trong một cơ quan chính phủ tạiVirginia. Sau khi về hưu, Nguyên Phương hiện là cư dân vùng Little Saigon.Sau đây là bài viêt mới nhất của tác giả.
Tác giả định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. đầu thập niên 90, cư dânBerryhill, Tennessee, làm việc trong Artist room của một công ty Mỹ. Giảithưởng VVNM 2013, cô có 5 bài tham dư và đã nhận giải Vinh Danh TácGiả (hình bên) với hai bài viết tiêu biểu: “Thiên Thần Đen” và “CũngMột Đời Người”, kể về những di dân tị nạn tại Mỹ làm việc tới mứcquên mình để gửi tiền tiếp viện cho người thân còn ở quê nhà. Sau đâylà bài viết mới nhất của tác giả.
Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, công việc: làm nail. Tham gia viết về nước Mỹ từ 2011, với bút hiệu Hữu Duyên Nguyễn và bài "Cám Ơn Bố", bà đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.
Tác giả là một Y sĩ nội khoa và là Giáo Sư Đại Học tại Texas. Bài viết về nướcMỹ đầu tiên của Bà là “Chai Dầu Gió Xanh”, kể chuyện trên một chuyến bay khitác giả hướng dẫn phái đoàn gồm 33 giáo sư, sinh viên đi Việt Nam thực hiện mộtchương trình y tế của đại học TWU, Texas. Bài viết thứ hai của bà là môt chuyệntình “đơn phương, nhẹ nhàng, thâm trầm mà sâu sắc” từng làm chính nhân vật màcũng là tác giả đẫm lệ.
Tác giả đã cộng tác với nhiều diễn đàn văn chương Việt và tham dự nhiều sinh hoạt văn hoá giáo dục cộng đồng. Nhân dịp Chợ Tết Cộng Đồng vừa được khai trương tại Little Saigon, xin mời đọc bài viết mới về gian hàng “Thả Thơ” trong Chợ Tết.
Tác giả định cư tại Seattle từ 1975, đã hồi hưu sau khi phục vụ trong ngành xã hội tiểu bang nhiều năm. Hai bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của Nguyễn Đặng Bắc Ninh là “Nàng Dâu Mỹ” và “Cô Khách Sở Welfare” cho thấy cách viết chừng mực mà sống động. Sau đây là bài viêt thứ ba của tác giả là một truyện ngắn về phân ly và đoàn tụ, được ghi lấy ý từ một truyện ngắn của Rev. Howard C. Schade.
Chúc Mừng Năm Mới, mùng Một Tết Giáp Ngọ, Viết Về Nước Mỹ năm thứ 15 trân trọng mời đọc bài viết cảm động về hoa mai và mùa xuân từ một gia đình H.O. Tác giả sinh năm 1956. Qua Mỹ tháng 10 năm 1994 cùng với gia đình theo diện HO.; Hiện sống tại thành phố Tacoma, làm việc cho một công ty thuộc ngành lâm nghiệp,