Tác giả: Nguyễn Thị Hữu Duyên
Bài số 4132-14-29542vb4020514Tác giả sinh năm 1957, cư dân Santa Ana, công việc: làm nail. Tham gia
viết về nước Mỹ từ 2011, với bút hiệu Hữu Duyên Nguyễn và bài
"Cám Ơn Bố", bà đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ
2012. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.* * *
Mùa lễ tết năm nay hai vợ chồng Hà quyết định qua Nam Cali chơi.
Từ sân bay về, Thìn cho xe dừng trước tiệm phở ngày xưa.
Thìn bế con gái nhỏ của Hà nhanh chân bước vào tiệm, Hà và chồng
còn lục tục mang giỏ tã, sữa cho bé và dẫn con gái lớn vào sau. Cô
tiếp viên trầm trồ:
"Em bé đẹp quá, Mỹ hả chị?" Cô vừa bắc ghế cho bé ngồi
vừa hỏi.
"Cha Mỹ trắng, mẹ Mỹ vàng, hi hi." Thìn dí dỏm.
Vợ chồng Hà cũng vừa vào bàn. Chồng lo cho đứa nhỏ, vợ lo cho đứa
lớn, chị năm tuổi, em một tuổi rưỡi, hai chị em giống nhau như đúc.
Mắt xanh, mũi cao, da trắng, tóc hoe pha lẫn nét dịu dàng của mẹ,
nét dịu dàng đặc biệt của người phụ nữ Việt nam khiến ai thấy cũng
trầm trồ: "Wao, đẹp quá, thấy thương quá"
"Thấy mấy em bưng phở nhớ bọn mình ngày xưa nhỉ." Hà nhìn
Thìn bồi hồi.
*
Hà sinh ra và lớn lên ở Thanh Hóa, miền Bắc. Năm mười tám tuổi, vừa
tốt nghiệp cấp hai xong. Gia đình quyết định gom góp tiền của, và
mượn thêm vàng của bác Hai lo cho Hà đi du học.
Với giọng Bắc đặc sệt lại mang âm hưởng của vùng nhà quê Thanh Hóa
nặng nề, cô không dễ tìm bạn ở Mỹ vì đa số cho rằng Hà là Việt
Cộng nên không chơi.
"Nè cẩn thận với con Việt Cộng đó nhen. Có thể nó được Cộng
sản cài vô để hại bọn mình, chứ Cộng sản có ưa gì Mỹ đâu mà qua
Mỹ học."
Tiếng chì, tiếng bấc các bạn nói sau lưng nhưng lại cố ý cho lọt vô
tai Hà.
Hà tủi thân, thầm trách trời, oán đất sao mình lại sinh ra ở miền
Bắc mà không là miền Nam? Cùng một dải đất hình chữ S, cùng dòng
máu đỏ, cùng màu da vàng mà sao lại phân biệt đến đáng thương. Hà
không bận lòng với chế độ, với chủ nghiã thì tại sao cái chế độ,
cái chủ nghĩa ấy lại ảnh hưởng đến Hà. Tại sao và tại sao? Ngán
ngẩm, Hà bất cần, cô dán lên khung cửa sổ khẩu hiệu: "Bạn là hoạn,
bè là nạn" tự nhắc mình không cần đến mối quan hệ ấy!
Suốt một năm học Hà chỉ chơi với hai người cũng dân Bắc như Hà:
người ở Hà Nội, người ở Hải Phòng. Nhưng hai cô này khó trở thành
tri kỷ vì gia đình họ rất giàu, con cán bộ cấp cao, tiền bạc xài
thoải mái, không thích hợp với Hà. Họ mới đích thực là "Việt
cộng nòi," còn Hà? Có tiếng nhưng không có miếng, ở với Cộng
sản nhưng luôn đề phòng Cộng sản.
Hai năm đầu vẫn còn học ESL, tiền học đóng không nhiều. Vừa học, vừa
làm để kiếm tiền trang trải mọi chi phí và dành dụm gửi về quê trả
món nợ "du học."
Cái giọng Thanh Hóa đặc sệt ấy là một trở ngại lớn khi gọi phone
xin việc làm. Bất cứ việc gì: bồi bàn, rửa chén, giữ em bé... Hà
không nệ nhưng...người ta lại " nệ" cô vì là "Bắc
kỳ". Hà thắc mắc trong lòng: "Sống ở Mỹ, tự do và không
được kỳ thị đó là luật nhưng sao người Việt mình lại kỳ thị quá như
vậy?" Tự thắc mắc rồi tự trả lời: "Chắc họ không hiểu
luật".
Xin việc nơi nào cũng bị từ chối, sau đó Hà quyết định đi đến tận
nơi chứ không gọi phone nữa. Khi gặp mặt có lẽ họ sẽ dễ nhận hơn.
Nghĩ thì làm, lần ấy Hà đến tiệm phở vừa đăng rao vặt cần hai nữ
tiếp viên, biết tiếng Anh và tiếng Việt.
Hà nhìn bà chủ cười thật tươi: "Xin lỗi, cháu thấy cô đăng báo
cần tiếp viên nên đến xin việc, không biết cô đã có người chưa ạ?
Qua cặp kính cận dày cộm, bà chủ lướt mắt thật nhanh từ đầu đến
chân cô, bà chưa kịp trả lời, Hà nài nỉ:
"Xin cô giúp cháu, cháu cần việc làm, cháu hứa sẽ làm siêng năng
và cháu tin là cô sẽ hài lòng, bởi vì cháu quen cực khổ lắm rồi
ạ". Hà cất giọng dịu dàng và nhỏ nhẹ nhất ở mức độ có thể,
mong nhận được thiện cảm của bà chủ.
Trời không phụ lòng, bà chủ chấp nhận cô sau khi bàn bạc với chồng
vài câu. Hôm ấy có một sinh viên du học người miền Nam, Thìn, cũng
được nhận cùng với Hà.
Việc làm bưng bê phở là thịnh hành nhất, vừa học vừa làm kiếm tiền
gửi về Việt nam trả nợ ai cũng trải qua. Ngoại trừ một số ít gia
đình có tiền của sẵn nên các em qua đây chỉ để lo học mà thôi. Đa số
các em vay mượn nợ để đi. Hình như mọi người đều biết các em sinh
viên du học cần tiền trả nợ nên nghề bưng bê phở hoặc phụ giúp việc
nhà hàng được nhiều tiền tip lắm. Đó là cách giúp đỡ gián tiếp
của đồng hương
Từ đó hai bạn làm chung với nhau trong tiệm phở ấy. Thìn dễ thương
và không có thành kiến gì với Hà. Hai cô làm việc siêng năng, đúng
giờ, cần mẫn vì cả hai có cùng hoàn cảnh giống nhau: Nhà nghèo
phải mượn tiền để lo đi du học nên thiếu nợ. Cả hai đều chi tiêu tiện
tặn từng đồng, không phung phí, không đi mua sắm như những cô sinh viên
con nhà giàu. Quần áo, hai cô xin của con Bà chủ, ăn uống ở tiệm.
Lúc nào trong xe cũng có thùng mì gói, Hà thường bảo: "Khéo ăn
thì no, khéo co thì ấm." Thìn thì lại mở Kinh Thánh đọc cho Hà
nghe: "Đủ ăn, đủ mặc thì phải thỏa lòng vì sự tin kính và sự
thỏa lòng là một mối lợi lớn."
Thìn thường rủ Hà đi đến Hội Thánh Tin Lành để "thờ phượng Đức
Chúa Trời" là Đấng Tạo hoá. Thìn thường hỏi thăm về " miền
Bắc", Thìn muốn biết về sinh hoạt, đời sống của người dân cùng
da vàng, máu đỏ như mình mà bấy lâu nay bị chia cắt không quan hệ với
nhau, giống như anh em bị thất lạc vậy. Hà được dịp tâm tình:
"Năm năm mươi tư, mọi người ùn ùn di cư vào Nam gia đình tớ cũng
định đi nhưng thời gian đó bà nội tớ đau nặng, bố tớ sợ khi đi bà
chết trên tàu thì phải ném thây xuống biển cho cá ăn. Bố không đành
lòng như thế nên ở lại miền Bắc sống với Cộng sản. Việc ngoài ý
muốn, gia đình tớ nhất định không tham gia vào chính trị. Bố có nghề
thợ mộc nên cứ chăm chỉ làm công cho đồng bào, để sống qua ngày. Gia
đình quyết định cho tớ đi du học ước mong tớ có cơ hội đổi đời và
giúp gia đình đổi theo. Hy vọng lột được hai chữ "Việt Cộng"
bỏ lại cho chúng nó để đến đất nước tự do."
Thìn rất thông cảm Hà, giúp được gì cho Hà thì giúp hết mình. Thìn
bảo: "Giúp Hà là mình đang làm việc cho Chúa" Thìn cũng
khuyên Hà nên đặt đức tin nơi Chúa Giêsu để nhận được sự bình an, sự
giúp đỡ từ Đấng càm quyền trên vũ trụ này. Hà học chủ nghĩa
"vô thần" và thuyết "tiến hoá" từ nhỏ nên chưa chấp
nhận được những điều Thìn nói, nhưng cũng không phản bác vì:
"Phải có một Đấng sáng tạo chứ, không cái gì tự nhiên mà có
cả." Tự thâm tâm Hà nghĩ thế.
*
"What are you thinhking?"
Câu hỏi của Mark kéo hai bạn về thực tại. Thìn lắc nhẹ đầu, hé một
vệt cười trên khoé môi, cô vui vì thấy ánh mắt anh tràn ngập hạnh
phúc và thỏa lòng. Mark cho tương vào tô phở xe lửa, mặt tươi rói.
Hà loay hoay cắt phở và thịt cho con, con bé chun mũi hít hít ra vẻ
tay ăn phở sành điệu.
"Cho xin một chén hành dấm." Hà gọi thêm, đó là sở thích
của Hà khi ăn phở, Thìn thì không ăn được hành sống như vậy.
Thìn ngắt từng lá quế cho vào tô như thấy hình ảnh mình đang xếp
các cọng quế và ngò gai vào điã giá chuẩn bị bưng ra cho khách. Còn
nhớ vào những dịp lễ lớn, hoặc tết, tiệm mở cửa hai mươi bốn giờ,
bà chủ yêu cầu làm tăng ca hai bạn cũng không dám từ chối, buồn ngũ
đến khiếp nhưng vẫn cố gắng vì đó là dịp để kiếm thêm tiền.
"Bây giờ các em dễ kiếm việc hơn chúng mình ngày trước vì nhà
hàng, chợ búa mọc lên như nấm." Thìn vừa vuốt tóc đứa bé vừa
nhẹ giọng.
Kỷ niệm chợt ùa về như cơn gió tràn vào qua cánh cửa vừa được mở
tung. Thìn nhắm mắt dâng lời tạ ơn trước khi ăn. Hai bạn và đứa bé
gái cùng Amen với giọng hào hứng vô cùng.
*
Nợ duyên của Hà xuất phát từ tiệm phở này, nói đúng hơn là từ một
"tô phở" khi đến lượt cô lấy "order" một ông khách
Mỹ.
"Ông cũng biết ăn phở sao?" Hà hỏi khách tiếng Anh nhẹ như
gió (chứ không nặng như khi nói giọng Thanh Hoá).
"Yes." Khách nheo mắt với Hà.
Cô thấy vui vui vì người khách dễ thương này. Khách giới thiệu tên
"Mark" khi Hà bưng phở ra, gián tiếp muốn biết tên Hà.
Mark ở Michigan qua Nam Cali hai tháng một lần, mỗi lần năm ngày. Là
kỹ sư giỏi, lâu năm, nhiều kinh nghiệm, làm việc trong hãng chế tạo
máy bay. Anh đi đây đó đến các chi nhánh của công ty để hổ trợ kỹ
thuật. Qua Cali anh đến chi nhánh ở Tustin, Irvine. Anh thích thuê khách sạn
ở G.G để được gần nhà hàng Việt Nam, được ăn món phở mà bạn bè
giới thiệu và anh rất thích. Hầu như khi đến Cali Mack ăn phở mỗi
ngày. Khi gặp Hà tại tiệm này, Mark không phải chỉ mê tô phở mà thôi
nhưng hình như cô tiếp viên Bắc kỳ nho nhỏ xinh xắn ấy đã quấy động
trái tim Mack. Anh xem "phở" như món ăn chính của mình. Ăn
sáng trước khi đi làm, buổi chiều khi làm về và buổi tối trước khi
đi ngũ, nếu ngày đó anh chưa được gặp Hà. Rồi làm quen, rồi xin số
phone, rồi hẹn hò, rồi tình cảm bỗng dưng không mời mà đến, rồi xa
nhau chợt nhớ, rồi khi gần thì lại chẳng muốn xa. Không ai mà chẳng
nhận ra giữa họ: "Tình trong như đã, mặt ngoài còn e" (*) Mark
hơn Hà chín tuổi, nhưng anh vui nhộn, trẻ trung, đơn giản, không kiểu
cách, không cầu kỳ, không hình thức, không đãi bôi, và có ước muốn
cưới vợ Châu á. Ba Mark từng có mặt ở chiến trường Việt nam bốn năm
và có mối tình đẹp, trong sáng với cô nữ sinh vùng sông nước Hậu
giang. Khi về Mỹ tình yêu của họ trở thành kỷ niệm, do đó ông thường
ca tụng với mẹ con Mark về người phụ nữ Việt nam.
Phần Mark, sau thời gian tìm hiểu, đến khi duyên thắm, tình đậm, tình
càng đậm hơn với những tô phở thơm lừng. Mark ngõ lời cầu hôn.
Không có lý do gì để từ chối, thêm sự vun bồi của Thìn, Hà đồng ý.
Sau một chuyến đi Cali về, Mark trao cha tấm ảnh cô gái Việt có mái
tóc đen tuyền, dài nửa lưng, ánh mắt huyền, tròn xoe tinh nghịch,
chiếc miệng hơi rộng với đôi môi hơi dầy trông hiền và hấp dẫn. Chiếc
cằm vuông biểu hiện bản chất kiên nghị,nhẫn nại. Nụ cười của cô như
ánh đèn soi, sáng bừng cả gương mặt.
"Cô ấy tên Hà, con quen hơn một năm rồi. Con muốn cưới." Mark
nói với Ba.
Ba hỏi thăm về Hà và muốn gặp cô vào mùa Giáng sinh năm đó.
Hà rủ Thìn đi Michigan thăm gia đình Mark. OK.
Mùa đông Michigan thật lạnh, tuyết rơi trắng đường. Hôm ấy thời tiết
xuống âm 22 độ Đã được Mark dặn dò mà áo khoác của hai cô vẫn không
đủ ấm, dự định ra cửa đứng đợi Mark và nhìn tuyết rơi cho sướng
mắt, nhưng cái lạnh khiến hai bạn run từ trong ruột run ra, phải trở
vào bên trong chờ Mark gọi mới chạy vội ra. Mẹ Mark thật chu đáo, sắm
sẵn cho hai cô mỗi người một chiếc áo lông giả thật đẹp và sang
trọng gọi là quà Giáng sinh. Họ khoác lên người, buốt giá nhường
chỗ cho hơi ấm len vào hai tấm lòng viễn xứ. Riêng Hà cô ấm cả trái
tim đang yêu và được yêu.
Ba ngày ở Michigan, chơi với tuyết, chụp hình với tuyết, đi dưới
tuyết, ngồi hứng tuyết rơi, xem xe rãi muối cho tan tuyết, xúc tuyết
trên lối đi bộ, cào tuyết đọng trên xe vào sáng sớm, hai bạn tranh
nhau làm. Lần đầu tiên thấy tuyết nên vô cùng thích thú. Hà đem lòng
yêu Michigan và yêu màu trắng của tuyết từ dạo ấy.
"Mừng thay chốn ấy chữ bày. Ba sinh âu hẳn duyên Trời chi đây"
(*)
Gia đình Mark đồng ý, năm tháng sau, hôn lễ được cử hành tại
Presbyterian Church ở Michigan nơi mà gia đình Mark đi nhóm thờ phượng
Đức Chúa Trời hàng tuần. Ngày cưới hai bạn, Thìn bay qua từ Nam Cali.
Thìn thầm cầu nguyện cho Hà biết giao đời mình cho Đấng cứu chuộc
tên Giêsu để cuộc đời thực sự phước hạnh, chứ không chỉ giao trong tay
Mark.
Từ đó Thìn không có dịp qua Michigan nữa, vì bận rộn chồng con rồi
lo làm kiếm tiền bảo lãnh gia đình qua Mỹ. Hai bạn vẫn giữ liên lạc
với nhau, bây giờ Hà là một con chiên ngoan đạo hơn cả Mark. Lần sanh
đứa con đầu Hà đau bụng lâu lắm, sợ hãi nên gọi Thìn nhờ cầu nguyện
cho hai mẹ con. Thìn đọc cho bạn nghe câu Kinh Thánh: "Đức Giêhôva
phán: Ta là Đấng mở lòng mẹ ra, Ta là Đấng săn sóc sự sanh đẻ"
rồi cầu xin cho Hà được "mẹ tròn con vuông." Hà vui mừng quên
cả đau đớn, "cám ơn" bạn rối rít. Đứa bé mang hai dòng máu
Việt - Mỹ ấy là sợi dây thắc chặc tình yêu của họ, là chất súc
tác thêm hương vị cho hạnh phúc gia đình hai bạn.
Hà cũng đã bảo lãnh được cả gia đình qua Mỹ. Bây giờ Hà là chủ
tiệm nails ở thành phố T, Michigan.
Vừa ăn phở vừa nhớ chuyện xưa, hai bạn thấy ấm lòng theo từng thìa
nước lèo nóng hổi, thơm lừng. Tiệm phở này đã đổi chủ nên bây giờ
họ không gặp người quen ở đây. Mark vừa ăn vừa đút cho con. Đàn ông Mỹ
họ lo cho con rất giỏi vì họ nghĩ rằng lúc vợ mang con trong bụng họ
không giúp được gì, khi con đã chào đời họ phải lo cho con giúp vợ.
Vui vẻ, hạnh phúc khi được giúp vợ lo chăm sóc con chứ không phải bị
ép buộc. Hình ảnh chồng đẩy xe, xách nôi, cho con bú bình ở bến xe,
bến tàu, sân bay là chuyện thường xảy ra ở xứ Mỹ.
"Hà nấu phở rất ngon, tôi ăn nhiều lắm" Mark khoe.
Hai bạn cùng cười thích thú. Thìn đưa ngón tay cái lên về phía Hà ý
nói: "Cô ấy là số một." Mark hãnh diện nhìn vợ, ánh mắt
đầy khâm phục, yêu thương.
"Hà có về thăm Việt nam không?"
"Có, năm 2010, lúc ông Bác qua đời cả nhà về một chuyến."
"Mark thích không?" Thìn hiếu kỳ.
"Dĩ nhiên, vì lần đầu về quê vợ mà. Ôi giời ạ, bao nhiêu người
từ già đến trẻ đều bu vô ông ấy, ông ấy khoái quá. Chắc tưởng mình
là nhân vật quan trọng gì đó. Hi... hi..." Hà nhìn chồng che
miệng cười.
Hà kể, một tháng ở Việt nam đối với Mark là một chuyến phiêu lưu
đầy thú vị: "Có lẽ thú dị hơn Dế mèn phiêu lưu ký". Lần
đầu được ăn những đặc sản miền Bắc, ngoài phở còn những món ngon
vật lạ khác, có món ăn được, có món không.
Điều thú nhất là: từ sáng đến tối, nếu đi thì thôi, ở nhà thì
hàng xóm kéo đến đầy nhà. Họ gọi Mark là "Thằng Tây."
Mark nghe Hà nhắc đến hai chữ "Thằng Tây" biết đang nói về
mình nên cười ha hả. "Lần đầu trong đời dân làng tớ được tận
mắt nhìn thấy ông Mỹ chính hiệu, không hiểu gì cớ gì họ không gọi
"Thằng Mỹ" mà lại gọi "Thằng Tây? Tớ cũng không biết.
Chỉ biết họ cứ ơi ới gọi nhau: "Đến xem thằng Tây nầy.";
"Cái Hà đi Mỹ, lấy thằng Tây đẹp lắm đưa về nầy, đến mà xem chồng,
con của cái Hà bà con ơi."
Họ kéo đến xem thật, họ rờ rẫm Mark vuốt nhẹ lên làn da trắng lạ
lùng, ửng đỏ lên khi trời nóng bức. Có người véo nhẹ xem sao? Chắc
họ tưởng Mỹ không biết đau, hi hi. Khi Mark mặc quần " short",
mấy đứa trẻ con cứ bu vào vặt lông chân "thằng Tây"Mark. Có
người nhìn thật kỹ đôi mắt màu xanh trong như pha lê của Mark, họ xầm
xì: "Mắt thằng Tây giống mắt con mun nhỉ! Đẹp quá nhỉ!"
Từ ngày về quê vợ tên Mark không được nhắc đến mà tự dưng có tên
mới: "Thằng Tây."
Nhà lúc nào cũng nghe kêu léo nhéo: "Thằng Tây ơi vô ăn cơm"
"Thằng Tây ơi bế con đi" "Thằng Tây ơi khi nào trở về
Mỹ?" "Thằng Tây có thích Việt nam không?" "Thằng Tây
có con đẹp quá!" v...v...
Vui nhất là màn đi chợ. Chị Hai rất thích trêu "thằng Tây",
chị dạy Mack khi đi chợ phải biết trả giá, Mack hỏi: "Trả
giá" là nghĩa gì?" Hà giải thích. " Trả giá bao
nhiêu?" Mark lại hỏi, chị Hai dạy Mark nói câu: "Đắc quá, một
ngàn thôi". Cả nhà cười quá trời quá đất. ( Hà bắt chước Thìn
vì Thìn hay nói "quá trời quá đất")
Sáng hôm sau, Thằng Tây theo chị và mấy đứa cháu đi chợ, Mark trả giá
thật.
Mua thứ gì cũng hỏi "Cái này bao nhiêu?". Người bán trả lời
xong, Thằng Tây Mark nói liền: "Đắc quá, một ngàn thôi". Cả
chợ cười lăn. Mark cũng cười hì hì theo họ, chứ đâu hiểu được ý
nghĩa thâm thuý vì sao họ cười. Họ cười sự ngây ngô của "thằng
Tây" biết nói mà không hiểu tiếng Việt.
*
Thìn hình dung cảnh mọi người bu quanh thằng Tây Mark mà lòng bùi
ngùi. Tội nghiệp, họ sống trong sự tuyên truyền, đầu độc quá mức nên
khi đối diện sự thật chắc họ ngỡ ngàng lắm. Họ không tưởng được Mỹ
tốt và dễ thương như vậy.
Lúc trả tiền, Mark xem hóa đơn xong, ngoắc em tiếp viên ra, tay chỉ vào
hóa đơn:
"Đắt quá. Một ngàn thôi." Mark vừa giả bộ trợn mắt kinh
ngạc vừa móc tiền ra trả.
Thìn cười nắc nẻ, mấy người khách chung quanh cũng cười ké, còn vỗ
tay nữa chứ.
"Người dân miền Bắc bị tuyên truyền Mỹ xâm lăng, họ đâu có hiểu
sự thật. Lẽ ra họ phải ác cảm với "Thằng Tây Mark" mới
đúng?" Thìn thắc mắc.
"Bây giờ người dân họ hiểu Mỹ tốt rồi. Nếu không tốt thì đâu có
cho con cháu họ qua du học." Hà giải thích. "Xóm của tớ
ngày xưa nghèo khổ lăm nhưng bây giờ có đô la Mỹ của thân nhân gửi về
giúp đở nên khá hơn nhiều. Có người còn nói nhỏ với tớ "Thằng
Mỹ giàu mà tốt hơn thằng Liên Xô đấy nhé!".
"Nước chảy càng ngày càng tới. Từ từ rồi mọi người cũng hiểu
ai tốt, ai xấu; ai hại, ai giúp; ai ghét, ai thương; ai thật, ai
giả!" Thìn trầm giọng đủ cho Hà nghe.
Hai người bạn sống trong hai chế độ khác nhau, hiểu biết khác nhau
nhiều mặt nhưng được cùng qua Mỹ học và chơi với nhau nên đồng cảm
được nhau.
Bây giờ giới trẻ Việt nam qua Mỹ du học nhiều, mắt họ mở ra thấy
được đâu là "thiên đàng hạ giới," đâu là "địa ngục trần
gian."
Đối với Thìn, dầu các bạn trẻ ấy là dân miền Bắc hay miền Trung,
miền Nam họ đều là mầm non của đất nước. Nếu họ là con em cán bộ,
Đảng viên càng tốt vì họ sẽ được thấy tận mắt, rờ tận tay, được
hiểu rõ hơn thế nào về "Thằng Mỹ" mà bấy lâu nay họ chỉ
thấy qua những bức tranh vẽ rùng rợn, độc ác, gớm ghê. Họ chỉ được
nghe mắng chửi, tuyên truyền bậy bạ.
Dầu họ qua Mỹ rồi họ ở lại hay họ trở về cũng là điều tốt cho
họ. Họ sẽ học được những điều hay, những việc tốt của một đất
nước tiến bộ, văn minh nhất thế giới. Một đất nước luôn có mặt
trước tiên để cứu giúp, giải cứu cho những nơi nào có thiên tai, có
chiến tranh, có khủng hoảng, có đau khổ, có áp bức, có sự bất công,
có hành động mù quáng. Một đất nước tự do đúng nghĩa, nhân đạo
đúng nghĩa, tiến bộ đúng nghiã, hùng mạnh đúng nghĩa trong khoảng
thời gian ngắn, chỉ hơn hai trăm năm lập quốc.
*
Thìn đặt tờ giấy hai mươi đô lên bàn.
"Cho nhiều típ để mấy em chia nhau được nhiều, nhớ ngày ấy, hôm
nào được tiền tip nhiều Hà mừng quá không thể nào chợp mắt được,
cố nhớ lại từng gương mặt khách mà thầm cám ơn họ. Hà bảo với
mình như vậy, có nhớ không?" Thìn mỉm cười.
Hà chớp mắt cố ngăn xúc động, gật nhẹ đầu. Cô đảo mắt một vòng
nhìn các em bưng bê, nam có, nữ có đi tới đi lui, nhanh nhẹn, trật tự
và vô cùng lịch sự. Mi đã ngân ngấn lệ, Hà như thấy hình ảnh mình
mười năm trước mờ ảo, ẩn hiện. Nhìn quanh thực khách như để cố đoán
xem trong số những anh chàng đang ngồi ăn ở đây anh nào sẽ gặp được
"cái xương sườn số tám" của mình.
Để rồi thêm một mối tình lại bắt đầu qua "Tô phở duyên nợ"
đậm tình quê hương.
Nguyễn Thị Hữu Duyên
Ghi chú:
(*) Truyện Kiều của Nguyễn Du