Tác giả: Thạnh Hoà
Bài số 4111-14-29511vb7011113Thạnh Hoà là bút hiệu mới của một tác giả từng có bài tham dự Viết Về Nước Mỹ từ
2011. Sau đây là bài đầu tiên khai trương bút hiệu mới của ông.* * *
Tháng 4/75, Quân cùng đồng-đội đang phục-vụ trên một chiến-hạm của VNCH tại
vùng biển VN để yểm-trợ cho một đơn-vị bạn đang hành-quân thì có lệnh cho tàu đổi
hướng ra khơi nên không ai có cơ-hội vào đất liền để từ-giả gia-đình! Khi tới
Phi-Luật-Tân thì mọi quân-nhân đều trở thành người dân tỵ-nạn. Sau đó họ được
đưa qua trại tỵ-nạn ở Mỹ, tạm trú một thời-gian, cuối cùng, họ được những người
Mỹ hảo-tâm bảo-lãnh ra khỏi trại và xây-dựng cuộc đời mới.
Quân được ông John, chủ trại nuôi bò, bảo-lãnh và nhận anh về làm việc cho ông.
Trại bò nằm gần bên xa lộ I-5 ở vùng Lodi, thuộc miền Bắc California, cách thủ-phủ
Sacramento chừng một giờ lái xe. Công việc của anh lúc đầu là lo cho bò ăn uống
và làm vệ-sinh nông trại. Lần lần quen việc, anh được giao cho việc thu-hoạch sửa
bò.
Quân năm ấy đã 30 tuổi. Ở đây chỉ có mình anh là người Việt-Nam, anh biết tiếng
Anh nhưng không giỏi lắm. Nhờ mỗi ngày dùng toàn tiếng Anh cộng với sự
siêng-năng học-hỏi nên trình-độ Anh-Văn của anh rất mau tiến-bộ. Mới vô, anh được
trả lương căn-bản và được cho ăn ở gần bên nông trại. Ông chủ rất hài-lòng vì
anh làm việc rất cần-mẫn và công-việc được hoàn-tất chu-đáo nên sau vài tháng
thì anh được tăng lương
Suốt sáu tháng trời sống ở nơi đồng khô cỏ cháy, anh chỉ được chở đi tới những
thành-phố chung-quanh mỗi tháng một hai lần để mua sắm những thứ cần-thiết, anh
chỉ quen biết vài người Mỹ, Mễ làm chung và mấy trăm con bò trong trại. Anh ăn
đồ ăn của Mỹ, Mễ ngán đến tận cổ! Anh thèm được ăn một chén cơm trắng, thèm
chút nước mắm, thèm miếng cá khô v.v… mà không biết kiếm đâu ra! Mỗi ngày nhìn
thấy xe chạy trên xa lộ anh ước-ao có một xe nào đó có người VN chạy vào nông
trại để anh được nói chuyện bằng tiếng VN... biết bao là điều mơ-ước, một điều
ao-ước quan-trọng nhứt là được gặp lại vợ con nhưng nó quá xa vời! Anh rất đau
lòng vì phải bỏ vợ và hai con ở lại VN, nỗi nhớ niềm thương làm cho anh vô cùng
đau khổ!
Tới tháng thứ bảy thì Quân có được người bạn mới là Jim, thỉnh-thoảng Jim chở
anh đi ăn ở thành-phố bé nhỏ nầy và giúp anh đi chợ mua đồ ăn tươi để về anh tự
nấu vài món ăn VN. Jim cũng giúp cho anh thi lấy được bằng lái xe và anh mua được
một xe Toyota cũ để có dịp đi đây đi đó..
Những khi rỗi-rảnh anh lo học tiếng Anh và trồng-trọt rau cải xung quanh nhà. Với
phân bò sẳn có, rau cải lên rất tốt, anh ăn không hết. Nhờ có chiếc xe, anh lần-lần
lái đi đến các thành-phố lân-cận rồi đi đến Stockton. Anh nghe Jim nói Sacramento
là thủ-phủ của California và có nhiều người Á Châu, anh nghĩ nơi đây có nhiều
người VN nên mua bản đồ coi và lái xe đến đó.
Khi vào một chợ Mỹ khá lớn, anh đẩy xe đi tìm đồ ăn thì gặp hai ông bà người Á
Châu khoảng trên 50 tuổi cũng đi chợ như anh. Anh liền hỏi bằng tiếng Việt:
- Thưa Bác! Bác có phải là người VN không Bác?
Ông cụ vui-vẻ trả lời: - Phải! Bác là người VN. Cháu qua Mỹ lâu chưa ?
- Dạ được hơn bảy tháng.
Ở nơi xứ lạ quê người Quân rất thèm nghe tiếng Việt-Nam, nay gặp được người VN
anh mừng như gặp được bà con ruột thịt. Riêng hai Bác VN, Bác Thái, gặp được đồng-hương
nên cũng rất vui mừng. Ba Bác cháu nói chuyện với nhau rất là tương-đắc. Bác
Thái hỏi thăm về gia-cảnh của Quân, anh kễ cho hai Bác nghe. Hai Bác rất tội-nghiệp
anh và mời anh về nhà chơi, nơi đây anh gặp được vợ chồng người con trai của
hai Bác là anh chị Hiền cùng 2 con nhỏ.
Gia-đình nầy có phước quá nên được sum-vầy. Còn gia-đình anh thì chia ly mỗi
người một ngã! Không biết đến chừng nào mới được gặp nhau! Bác Thái mời anh ăn
bửa cơm trưa với cá kho tộ và canh chua gà nấu với cải bắp. Ðây là món mà anh
ưa thích, anh ăn mà nghe nó ngon từng tế-bào của cái lưỡi. Anh rất cảm động nói
với Bác Thái:
- Từ hôm sống ở Mỹ tới giờ, đây là bữa ăn ngon nhứt của con, con vô cùng
cám ơn gia-đình Bác đã cho con ăn một bửa cơm ngon quá là ngon.
- Có gì đâu con, Bác thấy con rất hợp với Bác nên Bác thương như con cháu, khi
nào có lên đây nhớ ghé nhà Bác chơi. Ở vùng nầy không có nhiều người Việt, Bác
chỉ quen có vài gia-đình mà thôi!
Sau lần tới Sacramento, Quân dọ-dẫm xin việc làm ở đây, nhưng vì không có nhiều
hảng xưởng nên đã hơn ba tháng rồi mà anh chưa tìm được việc làm!
Có một lần khi Quân tới chơi với anh Hiền thì Hiền hỏi:
- Anh Quân! Anh xin việc ở đây không được, anh có ý định đi San Jose sống
không?
- Tôi chưa biết San Jose, anh biết ở đó có đông người Việt không và có dễ sống
không?
- Tôi không biết nhiều! Tôi mới liên-lạc được với người bạn ở dưới đó. Nếu anh
muốn, tôi gọi nó cho anh nói chuyện.
Quân đồng ý và Hiền liền gọi cho Kiên ở San Jose.
Hiền nói chuyện với Kiên và giới-thiệu Quân với Kiên rồi đưa máy cho Quân nói
chuyện.
Sau khi nói chuyện với Kiên, Quân vui-vẻ nói với Hiền:
- Anh Kiên cho tôi biết, ở San Jose rất đông người Việt và nhiều hảng xưởng lắm,
nếu mình đi xin nhiều chỗ thì sẽ có được việc làm. Tôi thấy cứ đeo theo nông trại
làm nghề chăn bò thì buồn quá và tương-lai cũng không khá được. Làm hảng thì
tương-lai chắc-chắc sẽ tốt hơn, Kiên kêu tôi xuống nhà ảnh ở tạm, chừng nào có
việc sẽ tính sau, tôi sẽ làm cho nông trại một tháng nữa rồi đi San Jose ở..
*
Quân tới San Jose vào sáng thứ bảy nên Kiên có ở nhà. Kiên với hai người bạn là
Hùng và Tính cùng mướn căn appartment hai phòng. Phòng của Kiên chỉ có một người
nên Quân vào ở chung với Kiên.
Cả ba người nầy đều nhỏ tuổi hơn Quân và chưa ai có chiếc xe nào hết. Nhờ chợ ở
gần nên họ đi bộ qua mua, còn đi làm thì làm chung một hảng, có bạn đưa rước.
Nay có thêm Quân và có được chiếc xe nên họ rất mừng.
Chiều bửa đó Quân chở Kiên tới nhà anh Hưng để nhờ anh giúp làm giấy tờ đi xin
việc làm. Hưng giỏi tiếng Anh và hay giúp-đở người Việt mình. Thứ ba tuần sau,
anh xin nghỉ một buổi để giúp Quân đi nộp đơn ở các hảng.
Quân may mắn được nhận làm chung hảng với Kiên, Hùng và Tính, nhờ anh biết tiếng
Anh nên việc học nghề không có gì trở ngại, anh lại là người khéo tay nên dù vô
làm mới hai tháng nhưng món đồ anh làm không thua những bạn làm ở đây trước
anh.
Sống ở San Jose được vài tháng thì cuộc sống của anh đã ổn-định, có nhiều thì
giờ rảnh-rổi. Càng rảnh-rổi anh càng nhớ vợ con nhiều hơn. Anh hỏi thăm nhiều
người nhưng vẫn không có tin-tức gì về vợ con anh cả! Anh biết chắc-chắn là vợ
con anh không còn ở chỗ cũ nữa!
Để lấp khoảng trống thời-gian rảnh-rổi, anh đi làm việc thiện-nguyện giúp-đỡ đồng
hương và ghi danh đi học để lấy bằng chuyên môn.
Ba năm sau anh đã lấy được bằng Technician, được hảng đổi chỗ làm, được lãnh
lương cao hơn và anh ghi danh học tiếp.
Một buổi tối, khi bốn người đang coi TV thì có người kêu cửa. Kiên vừa mở cửa
thì thằng Hiển vừa khóc vừa nói:
- Chú Kiên ơi! Má con bịnh nặng lắm! Con kêu hoài mà Má con không lên tiếng, chú
giúp giùm Má con đi chú!
Thằng Hiến, 8 tuổi, là con của cô Liên. Nhà chỉ có hai mẹ con, mướn căn appartment
hai phòng cũng trong khu nầy. Liên lớn tuổi hơn Kiên, Hùng và Tính nhưng nhỏ
hơn Quân.
Thấy hai người cùng là trai đơn gái chiếc, ba người nầy thường “cáp đôi” Liên với
Quân nhưng anh đối xử với Liên bình thường như những người khác.
Trước 75, chồng Liên là quân-nhân nhảy dù. Anh kêu Liên dẩn thằng Hiến rời VN
trước rồi anh sẽ đi sau. Nhưng sau đó thì không có tin-tức gì về anh nữa!
Nghe Liên bịnh, mọi người liền ngó sang Quân vì anh có xe và là “chim đầu đàn”.
Anh nói với Kiên:
- Chú mầy đi với anh qua coi cô Liên ra sao.
Thấy trán Liên nóng quá và cô nằm mê-man. Quân kêu Kiên lấy khăn thấm nước lạnh
lau mặt cho cô. Phần anh thì gọi cho bác-sĩ. Bác-sĩ kêu anh chở cô Liên vô nhà
thương ở gần đó.
Hai ngày sau, Liên được xuất viện về nhà nhưng cô rất yếu-ớt. Quân và các bạn
phải lo chăm-sóc cho Liên. Khi Liên hết bệnh, hai nhà tới lui với nhau thường
hơn. Cả Quân và Liên đều cô-đơn lại sống nơi xứ lạ quê người, nên hai người
càng ngày càng thân-thiết và sau đó không tránh khỏi việc “lửa ở gần rơm”. Hai
người cùng đồng-ý mướn nhà sống chung để nương-tựa với nhau, hai người cũng thỏa-thuận
là nếu chồng Liên hoặc vợ Quân qua Mỹ thì hai người sẽ chia tay.
Sau sáu năm vừa đi học vừa đi làm, Quân đã lấy được mảnh bằng tốt-nghiệp Đại-Học.
Hiện giờ anh là một kỹ-sư sáng giá của một hảng lớn ở San Jose.
Liên cũng lấy được bằng Đại-học hai năm và cũng đang đi làm. Cuộc sống êm đềm của
ba người, cho đến một ngày kia, Liên được người quen từ trại tỵ nạn mới qua Mỹ
cho hay: Quang, chồng của Liên, được ra tù và đã đi vượt biên tới được
Thái-Lan. Liên mừng lắm nhưng cũng buồn vì nàng đã không chung-thủy với chồng
trong mấy năm qua! Từ đó tính tình của nàng thay-đổi.
Quân cũng gặp được một người quen ở chung xóm hồi trước cho hay: Quyên, vợ anh,
cùng con gái là Vân và con trai là Thanh bị đuổi ra khỏi nhà trong căn-cứ Hải-Quân
và có ai đó rủ đi về sống ở Bến-Tre. Nghe được tin nầy, hy-vọng được gặp lại vợ
con trong lòng anh bùng lên mãnh-liệt, anh tạo một căn nhà khang-trang rộng-rãi
để chuẩn bị đón vợ con qua Mỹ. Những thì giờ rảnh-rổi, anh dành hết cho việc
tìm kiếm vợ con.
Vì mỗi người đều có tâm-sự riêng tư nên cuộc sống chung của Quân và Liên không
còn hạnh-phúc nữa! Hai người cùng tỏ thật lòng mình và đồng ý chia tay! Liên rời
khỏi San Jose và về sống ở miền Nam California.
Khi VN đổi mới, có nhiều người qua lại VN, Quân mới dám về VN, xuống tới
Bến-Tre bốn lần và đã nhờ các cơ-quan truyền-thông giúp-đở nhưng vẫn không có
manh-mối gì về vợ con hết! Anh buồn quá bỏ bớt chuyện đời, thường đến chùa để tụng
kinh và làm công-quả.
*
Thanh Landon nhìn mảnh bằng Ðại-Học mà em được lãnh hồi trưa nầy! Sau bao năm
đèn sách em đã trở thành một kỹ-sư với một cuộc sống sáng-sủa ở tương-lai. Nếu
Ba Mẹ ruột em có mặt trong lễ tốt-nghiệp nầy thì hai người mừng lắm! Nhưng buồn
là em đã bặt tin cha mẹ của em mười mấy năm nay. Em nhớ Ba Mẹ và chị vô cùng
nên ngồi mơ-màng nhớ tới những việc đã qua …
Năm 1975, Ba của Thanh không có ở nhà. Mẹ, chị Vân và Thanh bị đuổi ra khỏi nhà
trong căn-cứ Hải-Quân. Nhờ có người quen rủ về định-cư ở Xã X, thuộc tỉnh Kiến-Hòa,
sau nầy đổi lại thành Tỉnh Bến-Tre. Cuộc sống vô cùng khó-khăn, bửa đói bửa no.
Lúc đó em được hơn 10 tuổi, em phải bỏ học, đi kiếm từng cọng rau, con cá để phụ
với Mẹ và chị. Một đêm nọ, trời tối đen như mực, em đi thăm lưới ở mé sông Cửa
Ðại, vừa lên bờ thì thấy có một số người đi về hướng chiếc đò máy lớn đang đậu ở
mé sông. Có ba người tới bắt em đem lên đò máy. Em phản đối quyết liệt thì bị
đánh vô càm làm em bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, em thấy có rất nhiều người ngồi
xung-quanh em, hỏi ra mới biết họ đi vượt biên, gặp em nên họ bắt em đi theo vì
nếu thả em về, sợ em tiết-lộ thì cuộc vượt biên sẽ bị “bể”.
Sau mấy ngày đêm lênh-đênh trên biển cả, đò máy tới được Mã-Lai. Thanh được xếp
vào diện vị-thành-niên. Có hai vợ chồng người Mỹ là Ông Bà Landon, ở San Jose,
nhận em làm con nuôi và bảo-lãnh em qua Mỹ. Em được đổi thành họ Landon. Em có
người chị Mỹ là Jenny lớn hơn em bốn tuổi. Gia-đình nầy thương em như ruột thịt
và nuôi em ăn học thành tài. Trước 1975, ông Landon đã từng qua VN phục-vụ nên
biết ít nhiều phong-tục VN và nói tiếng Việt rất khá.
Ông Bà Landon muốn cho em giữ phong-tục Việt-Nam nên thường đưa em đến sinh-hoạt
ở Chùa Phật, nơi có đông người Việt thường quy-tụ. Do đó hiện giờ em vẫn còn viết
và nói tiếng Việt khá trôi-chảy.
Ba Mẹ nuôi của em cũng đã khuyên em viết thơ về VN để tìm gia-đình nhưng trong
những lần tới Chùa, em nghe nhiều người nói là: nếu mình ở nước ngoài mà gởi
thơ về VN thì người thân mình sẽ bị chánh-quyền địa-phương làm khó dễ, nên em
không dám gởi thơ. Khi VN có lệnh đổi mới, em có viết thơ về VN nhưng thơ bị trả
lại vì Mẹ và chị không còn ở tại Xã X nữa! Cho tới bây giờ, đã mười mấy năm sống
ở Mỹ, em vẫn chưa có tin-tức về gia-đình. Em tự hứa với lòng là phải tìm cho được
những người thân-thương ruột thịt của mình.
*
Ông Landon và Thanh xuống phi-trường Tân-Sơn-Nhứt vào buổi trưa nên trời nóng
như thiêu đốt. Hai cha con được một hảng du-lịch đón tiếp và đưa về khách-sạn.
Sáng hôm sau có tài-xế là Sinh đến rước và đưa về Xã X ở Bến-Tre. Sinh là người
Bến-Tre nên chuyến đi không có gì trở-ngại.
Về tới quê, Thanh cảm thấy nôn-nao, xúc-động. Cảnh vật thay đổi rất nhiều làm
em thấy xa lạ. Đồng ruộng trước kia giờ đây là vườn cây, nhà cửa. Vườn dừa trước
kia nay không còn nữa mà được thay thế bằng một rừng nhản.Thanh phải hỏi thăm
người trong xóm mới tới được nhà Dì Tư Xuyến, người ân của gia-đình em, người
đã rủ Mẹ em về đây sống và cho Mẹ em miếng đất để cất nhà.
Xe vừa ngừng, Thanh xúc-động quá nên quên Ba nuôi bên cạnh, em bước xuống xe và
chạy một hơi vô nhà kêu lớn:
- Dì Tư ơi! Dì Tư! Dì Tư có ở nhà hôn Dì Tư?
Thanh thấy một người con gái đang đi tới trước mặt mình. Thanh hỏi:
- Nhà nầy có phải nhà Dì Tư không cô? Dì Tư có ở nhà không cô? Cô là gì của Dì
Tư vậy cô?
Thấy anh hỏi một hơi, cô gái không trả lời mà nghịch-ngợm hỏi lại:
- Anh là ai vậy? Anh ở đâu tới đây vậy? Sao anh biết má tôi vậy? Anh kiếm má
tôi chi vậy?
Thanh ngó sững cô gái: đôi mắt, cái miệng, cái răng khểnh... Thanh nhận ra cô
và nắm tay cô nói nhanh:
- Hạnh! Em là Hạnh phải hôn? Anh là Thanh, con của Dì Hai Quyên nè!
Hạnh xúc-động nhìn Thanh và mếu-máo:
- Anh Thanh! Em là Hạnh nè! Anh còn sống đây sao?
Cô khóc òa lên làm Thanh cũng khóc theo, Thanh ôm chặt lấy Hạnh, cả hai đầm đìa
nước mắt. Qua cơn xúc-động, Hạnh thấy mình đang trong vòng tay của Thanh và thấy
nhiều cặp mắt đang nhìn mình, cô thẹn quá vội đẩy nhẹ Thanh ra và hỏi trong màn
lệ với vẻ trách-móc:
- Anh bỏ đi đâu mất biệt! Mười mấy năm nay sao anh không về? Lúc anh mất tích,
Dì Hai bỏ ăn bỏ ngủ nên Dì bị bệnh xém chết đó!
- Anh đi qua Mỹ! Chuyện dài lắm để lát nữa anh kễ cho em nghe. Mẹ và chi Hai của
anh giờ ở đâu em biết không?
- Dì Hai và Chị Vân rời khỏi đây sáu bảy năm rồi! Em nghe nói ở Mỹ-Tho nhưng em
không biết nhà, Chị Ba em cũng ở Mỹ-Tho, chắc chỉ biết.
- Em đi Mỹ-Tho với anh nhen? Anh nôn gặp Má anh quá!
- Chắc được, để em hỏi má em.
Vừa lúc đó Dì Tư Xuyến, Mẹ của Hạnh và vợ chồng Hai Thiện, anh và chị dâu của Hạnh,
ở ngoài vườn cũng vô tới, mọi người gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chòm xóm nghe
tin cũng tới thăm chật nhà. Thanh kễ sơ qua về cuộc “vượt biên” của em cho mọi
người biết. Mọi người mừng cho em được may-mắn. Ông Landon thấy tình-cảm đậm-đà
của người Việt, ông rất vui-mừng và ngưởng-mộ vô cùng.
Hạnh cùng đi với cha con Thanh lên Mỹ-Tho. Khi mướn khách sạn xong, Thanh tính
đem hành-lý vô phòng nhưng anh tài-xế khuyên:
- Người đâu của đó em ơi! Không nên bỏ đồ ở đó lúc không có mình!
Mọi người đi tới nhà chị Ba của Hạnh, hỏi thăm đường rồi chạy qua nhà Dì Hai
Quyên.
Ông Landon nói: nếu Dì Hai gặp Thanh bất-ngờ, Dì có thể bị xúc-động mà nguy-hiểm
đến tính-mạng. Ông dặn-dò Hạnh phải làm sao và phải nói những gì để Dì Hai bớt
xúc-động.
Chỉ có một mình Hạnh đi vô nhà. Hai cha con ngồi đợi trong xe, Thanh thấy Mẹ
mình thì muốn chạy vô nhà để gặp Mẹ ngay nhưng em ráng kiên-nhẫn ngồi đợi. Bà
Hai Quyên nói chuyện với Hạnh mà nước mắt tuôn-tràn. Một lát thì Hạnh ra kêu
Thanh vô. Thanh ào vô như một cơn lốc. Hai Mẹ con ôm nhau mà khóc một hồi mới
nói chuyện được.
Ông Landon là người cứng-rắn nhưng trước sự sum-họp của hai mẹ con, ông cảm-động
quá nên cũng không cầm được nước mắt.
Thanh nhìn lên thấy đôi mắt của cha nuôi đỏ hoe, em mới sực nhớ nảy giờ mình đã
bỏ quên ông! Em giới-thiệu Mẹ ruột của mình với ông và giới-thiệu Ông với Mẹ ruột
của mình.
Bà Hai Quyên chấp tay đứng trước mặt ông và nói:
- Mẹ con tôi rất đội ơn ông đã nhận thằng Thanh làm con, cùng nuôi dưỡng và lo
cho nó ăn học thành-tài. Tôi không biết nói gì hơn là xin ông nhận một lạy này
để tỏ lòng biết ơn của tôi.
Nói xong bà quỳ xuống tính lạy làm ông Landon lính-quýnh nói “nô, không, không”
Ông vội đỡ bà dậy và nói:
- Không có chi! Không có chi! Bà đừng làm vậy, nó cũng là con của tôi. Xin Bà đừng
bận tâm.
Bà Hai dẩn Thanh lại bàn thờ. Thanh nhìn thấy ảnh của ba mình và ảnh của mình.
Em lấy hình của em xuống, thắp hương và khấn lạy Ba em rồi gục đầu xuống mà suối
lệ trào tuôn !
Sau đó anh chị Hai của Thanh đi làm vừa về tới. Cuộc tương-phùng làm ai cũng
rơi nhiều nước mắt. Một người mà ai cũng nghĩ là đã chết mười mấy năm qua, giờ
đây trở về với con người bằng xương bằng thịt thì làm sao tả cho hết được nỗi
vui-mừng.
Ông Landon ở lại VN hai tuần, ông cùng gia-đình Bà Hai Quyên và Hạnh đi thăm
vài danh-lam thắng cảnh. Ông trở về Mỹ trước, còn Thanh ở lại tới hai tháng mới
về Mỹ. Trong thời-gian nầy Thanh và Hạnh rất tâm-đầu ý-hợp. Qua năm sau em về
cưới Hạnh và năm sau nữa Hạnh được qua Mỹ.
Sau đó Bà Quyên cũng được qua đoàn-tụ với con, dâu và cháu nội, Thanh đã tạo được
căn nhà rộng-rãi và đầy-đủ tiện-nghi. Dù ở riêng nhưng tới cuối tuần là Thanh
chở hết gia-đình tới nhà Ba Mẹ nuôi ở chơi đến tối mới về. Ông Bà Landon cũng
thường tới nhà Thanh thăm mọi người và nhứt là để nựng thằng cháu nội.
*
Hôm nay là 30 Tết, Thanh đem con qua gởi ở nhà Ba Mẹ nuôi. Thanh chở Mẹ và vợ
đi chùa làm công-quả để chuẩn-bị đón Tết vào ngày mai. Bà Hai Quyên và Hạnh phụ
với bà con lo việc ở nhà bếp. Thanh thì ra sân phụ với Bác Hai cắt tỉa cây kiểng.
Đến trưa, Bà Hai Quyên ra sân kiếm Thanh. Bà thấy một người đang tỉa kiểng vừa
ngó lên, Bà lên tiếng chào:
- Chào ông! Rồi Bà nhìn ngay mặt người đó hỏi với giọng run run:
- Ông đây có phải là...
Người đàn ông cũng ngó chăm-chú vào Bà Quyên, trả lời:
- Tôi là Hai Quân.
Rồi ông mếu-máo kêu lên:
- Quyên! Trời ơi! Quyên đây mà!
Bà Hai Quyên kêu lên trong nước mắt:
- Anh Quân! Anh còn sống đây sao?
Ông Quân kêu lên “Quyên”! Rồi ông bước tới định ôm lấy Bà Quyên.
Dù xúc-động nhưng Bà Quyên vẫn nhớ đây là cảnh Chùa. Bà bước lui ra sau một bước
để tránh vòng tay của Ông Quân. Hai người vô cùng xúc động, vừa khóc vừa kễ vắn-tắt
cho nhau nghe về cuộc sống đã qua của mình.
Thanh nhìn Ba Má sum-họp, em rất mừng, em không ngờ người mà bấy lâu nay em rất
ngưởng-mộ và kính-trọng lại là ba của mình, nước mắt em cứ tuôn rơi. Ðến khi
nghe Ba hỏi Mẹ về các con, Thanh mới lên tiếng:
- Ba! Con là thằng Thanh của Ba nè Ba.
Hai cha con ôm chặt lấy nhau. Cùng bày tỏ biết bao nhiêu là niềm thương nỗi nhớ!
Nãy giờ Hạnh đã ra đứng cạnh bên Thanh. Thanh giới-thiệu:
- Thưa Ba! Ðây là vợ con. Hạnh là con của Dì Tư Xuyến ở kế bên nhà mình hồi xưa
đó Ba!
Mọi người mừng-rỡ trong cuộc tao-phùng. Sau một hồi tâm-sự, Hai Quân nhìn vợ,
nói:
- Anh sẽ bảo-lãnh gia-đình con Vân qua đây để gia-đình mình được hoàn-toàn
sum-họp.
Những việc xảy ra nảy giờ không qua khỏi cặp mắt của một người và vài phút sau,
mọi người trong chùa đều biết được tin vui nầy !
Vị Sư trụ-trì cùng nhiều Phật tử đi về phía gia-đình Hai Quân. Chấp tay trước
ngực, với giọng hiền-từ, Sư chúc mừng:
- Mô Phật! Thầy chúc mừng gia-đình Chú Hai được đoàn-tụ một nhà. Những lời cầu-nguyện
của Chú Hai nay đã được đạt-thành như ý nguyện. Xin nguyện-cầu Đức Phật từ-bi độ-trì
cho gia-đình Chú Hai luôn luôn được hạnh-phúc.
Mọi người trong gia-đình Hai Quân đều chấp tay kính-cẩn chào Vị Sư trụ-trì và đồng
đạo. Hai Quân thưa:
- Mô Phật! Con rất cám ơn Thầy! Chúng con xin đa tạ ơn Thầy đã lập ra ngôi Phật
Tự nầy, nhờ ngôi Phật Tự nầy mà cha con chồng vợ chúng con mới có cơ-hội để được
gặp nhau và cũng nhờ ơn Thầy mà gia-đình chúng con hưởng được mùa Xuân đoàn-tụ
nơi xứ lạ quê người./.
Thạnh Hoà