Hôm nay,  

khánh…

10/10/202412:12:00(Xem: 1655)
TG Phan Khoi nguyen VVNM 2018 cat banh tai le trao giai VVNM 2018
TG khôi nguyên Phan đang cắt bánh kỳ niệm Lễ Trao Giải VVNM 2018
 
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Bài viết dưới đây ghi lại vài suy nghĩ tản mạn của tác giả qua câu chuyện về người du học sinh Việt Nam cần cù chịu khó để đi đến thành công.
 
*
 
Tôi biết Khánh đã lâu, từ khi còn là cô bé du sinh, vô xin việc làm thêm ở toà báo để có thêm thu nhập. Nói nhiêu đó đã đủ biết Khánh không phải con cán bộ qua Mỹ ăn chơi bằng diện du sinh. Ngặt thời ấy, cộng đồng người Việt ở địa phương còn chống Cộng dữ lắm nên tôi chỉ biết tôn trọng những người bị bứng ra khỏi quê hương, sống đời hải ngoại. Tuy cái ăn, cái mặc, chỗ ở, việc làm; đặc biệt là tự do đều rộng mở ra tương lai tươi sáng; chỉ nỗi nhớ người thân, quê nhà canh cánh trong lòng người xa quê.
 
Chuyện kể của người anh trong gia đình nghe mới biết thương những người đến Mỹ từ năm 1975. Trời mùa đông lạnh lẽo bên vùng Pennsylvania, tuyết đá tới lái xe không được nên anh tôi đi bộ ra cửa hàng gần nhà nhất để mua cho con anh bình sữa. Trong những người khách ít ỏi của cửa hàng nhỏ vùng quê lại gặp hôm thời tiết xấu nên thưa vắng, anh tôi bỗng nghe được giọng nữ hát ngân nga một mình bằng tiếng Việt. Thế là cả một trời quê hương trong ký ức ùa về làm anh chết lặng đi giây lát. Người phụ nữ rời cửa tiệm, anh tôi mới hoàn hồn bước theo và cất tiếng hỏi, “Chị ơi, chị là người Việt hả?” Người phụ nữ dừng bước, quay lại nhìn anh tôi. Cô không nói lời nào mà hai dòng nước mắt lăn xuống gò má. Hồi trấn tỉnh lại cô mới nói được, “Tôi tưởng tôi không bao giờ được nghe tiếng Việt nữa…”
 
Người phụ nữ Việt lấy chồng là nhân viên Mỹ sang Việt Nam thời chiến tranh nên theo chồng về Mỹ năm 1975, anh tôi là lính Việt cũng di tản năm 1975. Hai người Việt không ngờ được nghe tiếng Việt ở xứ sở lạnh lùng và xa lạ. Mối quan hệ của hai gia đình không họ hàng mà thân như ruột thịt đến tận bây giờ. Có lẽ câu chuyện trong nhà đã cho tôi cái nhìn bớt khắt khe hơn với những người Việt đến Mỹ sau cuộc di tản lớn nhất thế giới cuối thế kỷ hai mươi và phong trào vượt biên sau đó trong nhiều năm. Tiếp theo là những người Việt đến Mỹ với những chính sách nhân đạo của chính phủ Hoa kỳ cho bảo lãnh thân nhân qua chương trình O.D.P vào những năm 1980 tới 1990; tiếp theo nữa là chương trình H.O cho tù cải tạo… Những người đến sau không có gì trở ngại với những người Việt đi trước từ năm 1975. Nhưng khi có sự xuất hiện của giới du học sinh Việt Nam qua Mỹ theo học thì mọi chuyện không còn tương thân tương ái như người Việt đến trước thường giúp đỡ người đến sau ổn định cuộc sống nơi xứ người.
 
Khi những người Việt xa xứ đã hình thành được cộng đồng người Việt dù nhỏ đến đâu nơi hải ngoại cũng gọi là Cộng đồng Người Việt Quốc gia; với ngôi chợ nhỏ đến đâu nhưng có bán gạo với nước mắm thì gọi là chợ Việt; tiệm ăn nhỏ đến đâu cũng trương bảng hiệu “Vietnamese Restaurant”. Mối liên kết của người xa xứ như bản năng sinh tồn, như ca dao tục ngữ Việt có câu, “Họ hàng xa không qua láng giềng gần”, tối lửa tắt đèn có nhau. Những sự giúp đỡ của đồng hương đến trước luôn ở trong lòng biết ơn của người đến sau, những sự giúp đỡ bây giờ xem là chuyện nhỏ nhưng hồi xưa lớn lắm như giúp xin việc làm, chở đi học tiếng Anh ở nhà thờ, chở đi làm khi chưa có bằng lái… Người Việt có tình đồng bào truyền thống đã thành văn hoá Việt. “Quan nhất thời dân vạn đại”, hồi nhỏ đi học làm sao hiểu được ý nghĩa sâu xa trong thành ngữ tiền nhân để lại. Bây giờ mới thấy đất nước đã thay triều đổi đại nửa thế kỷ qua, nhưng tình đồng bào qua cơn bão tố số 3 - Yagi trong nước vừa qua. Nhìn những chiếc xe bus, xe vận tải, xe hơi chạy chậm lại để tạo thành bức tường chắn gió bão cho những chiếc xe hai bánh qua cầu mà chợt hiểu ra “dân vạn đại”; quan chỉ nhất thời một thể chế chính trị nào đó thôi như thời phong kiến, thời thuộc địa đều qua đi… chỉ tinh thần dân tộc, truyền thống, văn hoá là mãi mãi.
 
Nhưng sự có mặt của giới du học sinh không làm thay đổi cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã hình thành vì họ cũng không đụng chạm gì tới cộng đồng có trước. Họ đến đây không vì lý do chính trị, ý thức hệ gì hết; chỉ đơn giản là đi học để có bằng cấp ở Mỹ. Nhưng những rắc rối đã xảy ra với họ, những rắc rối ngoài ý muốn cho cả đôi bên cộng đồng người Việt hải ngoại và du sinh. Một tiệm phở Việt mà nhận du sinh vào bưng phở, dọn bàn cũng bị đồng hương tẩy chay; một tờ báo nhận du sinh làm việc kiếm thêm cũng bị đồng hương biểu tình chống đối…
 
Mất nước đã mất, người đi kẻ ở đã quen dần với hoàn cảnh sống trong nước thay đổi chế độ, người ra hải ngoại lầm lũi đi làm. Phe miền Nam tưởng niệm ngày ba mươi tháng Tư ở hải ngoại năm thứ mười rồi hai mươi, ba mươi năm trôi qua vẫn không có một tổ chức nào xứng danh phục quốc, những người lính cũ đã già, thú đau thương của chú bác bây giờ là đến Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 06 hằng năm, chú bác mặc quân phục theo binh chủng, cầm cờ binh chủng đi sau cờ tổ quốc diễu hành từ Trụ sở Cộng đồng Người Việt Quốc gia, đi loanh quanh qua khu thương mại của người Việt bên cạnh rồi trở về Trụ sở ăn nhậu. Ngày 30 tháng 04 cũng vậy, thêm hai lễ Thượng kỳ và Hạ kỳ ở Trụ sở Cộng đồng là tròn năm. Và chú bác mỗi năm mỗi vắng theo tuổi già sức yếu, còn lại những ông già chống gậy mặc quân phục, nhìn buồn như ba mươi tháng Tư quanh năm, ngày nào cũng là ba mươi tháng tư khi đi ngang qua Trụ sở Cộng đồng Người Việt Quốc gia với bức tượng Việt-Mỹ xây hoài vẫn dang dở vì thiếu kinh phí đã mấy chục năm…
 
Khánh năm ấy còn trẻ lắm nhưng suy nghĩ già hơn tuổi đời, biết thông cảm cho người khác khi Khánh nói với tôi, “Em cần việc lảm thêm để kiếm thêm thu nhập, em đã đến hỏi hai tờ báo nhưng đều bị từ chối. Anh cũng đừng ngại từ chối vì em hiểu!”
 
Tôi lúng túng với người bạn trẻ biết nói câu, “em hiểu…” Đã hiểu rồi thì còn hỏi làm gì? Em học trường nào, sách gì mà thiếu câu, “đừng hỏi người khác một câu khó trả lời!” Nhưng tôi nghe trong lòng mình sự thương cảm tuổi trẻ Việt Nam sau chiến tranh cũng chẳng hơn gì tôi thời khói lửa. Những suy nghĩ về đêm tôi thường ở lại tòa soạn một mình vì thói quen làm việc yên tĩnh, thích vắng vẻ… lại thấy mình là người đi trước Khánh, nên giúp đỡ đàn em hơn là từ chối quách đi cho khỏi rắc rối với cộng đồng. Nhưng tôi làm sao quên mình từng đi học xa nhà, dù không xa như Khánh hiện tại. Tôi từng có những suy nghĩ chưa trưởng thành khi hỏi người khác một câu khó trả lời như, “em có thương anh không?” Làm cho cô bạn học phải tránh mặt từ đó! Tuổi trẻ với cảnh sống cơm đường cháo chợ, hồi hết tiền trả căn chung cư mà cả đám thuê để ở, nói cả đám chứ xoè bàn tay đếm không hết năm ngón những đứa có hùn tiền, những bạn bè tiền ăn còn không có thì tiền đâu hùn trả tiền thuê phòng. Thế là bị đuổi cổ ra khỏi nhà, lũ trẻ đi ngủ tá túc nhà bạn hay phòng tập thể của mấy ông thầy giáo, sáng gặp lại nhau trong trường như không có gì xảy ra đêm qua. Nhớ thời tứ bề khó khăn nhưng cùng đường thì trở về nhà cha mẹ ăn nhờ ở đậu vài hôm nhưng cũng đỡ hơn du sinh nghèo bây giờ, đâu phải muốn về nhà là về được vì xa quá, vì tiền đâu mà về? Những đứa con nhà giàu, con cán bộ sang đây ăn chơi thì nói làm gì. Những “Khánh” vì tương lai nên đi du học, nhưng con nhà nghèo thì phải đi làm thêm kiếm sống chứ cha mẹ đi cày trong nước, đồng lương công nhân viên hay giáo chức ăn lương nhà nước thì làm sao chu cấp nổi cho con du học Mỹ.
 
Hiểu như vậy thấy bớt nặng lòng quốc-cộng, sự phân biệt người trong nước với ngoài nước một thời đã qua. Những người bạn trẻ đã tốt nghiệp ra trường, dĩ nhiên họ tìm cách ở lại nhiều hơn về vì đã quen, đã hấp thụ cuộc sống tự do dân chủ; đã thoát khỏi nhà tù bao la thì ai còn muốn quay lại làm gì! Họ sống với dư luận cộng đồng thường xem thường hành vi tìm cách ở lại riết rồi cũng quen với cộng đổng ít ai nhớ lại những cuộc vượt biên của người Việt năm xưa với du sinh bây giờ cũng là chạy trốn, chỉ là những chương trình định cư cho thuyền nhân Việt Nam không còn nữa nên những người chạy trốn sau bị những người chạy trốn trước phân biệt.
 
Thế là những du sinh làm việc với tôi một thời vừa học vừa làm thêm kiếm sống cũng đã tuổi ba mươi, bốn mươi. Phần lớn đã ổn định cuộc sống với gia đình riêng sau khi kết hôn với người có quốc tịch. Rất hiếm khi tôi nghe được một du sinh sau khi học xong đã trở về trong nước sinh sống và làm việc. Họ thường là những cá biệt như con cán bộ học xong thì về bởi con cán bộ lại tốt nghiệp đại học bên Mỹ thì cái ghế họ ngồi còn cao hơn cả cha họ, tiền họ kiếm được bảo đảm nhiều hơn làm anh kỹ sư hãng xưởng bên Mỹ. Trường hợp thứ hai là bất tài vô dụng thì về cho cha mẹ nuôi tiếp như những bạn trẻ sống đời du sinh mà không biết nấu nồi cơm dù đã là nồi cơm điện.
 
Không phải ngẫu nhiên nhớ lại và nói đến những ngưởi bạn trẻ du sinh trong quá khứ. Tôi đi nha sĩ mỗi sáu tháng có bảo hiểm trả thì sao không đi để kiềm tra, làm sạch răng mình. Không ngờ gặp lại Khánh cũng là khách hàng cùng nha sĩ với tôi. Tôi ngỡ ngàng khi có người phụ nữ trẻ đẹp nhìn tôi như câu hỏi khó, rồi đột ngột hỏi, “Anh có nhìn ra em không?”
 
“Ồ, Khánh. Lâu quá không gặp…”
 
“Em mừng quá. Mừng gặp lại anh…”
 
“Để trả thù hay thanh toán mà mừng dữ vậy…”
  
“Cả hai…”
 
Chúng tôi phá lên cười như bạn bỗng thấy cây ớt mình trồng đã ra hoa kết trái. Khánh du sinh làm kế toán cho toà soạn ngày nào đã thôi ăn mì gói sống qua ngày nên bớt cằn cỗi khi còn rất trẻ. Cuộc hội ngộ bất ngờ, ngắn ngủi nhưng để lại dư âm… Tôi không quá khắt khe với du sinh khi nhận họ làm việc thêm giờ kiếm sống lúc theo học. Hồi ấy, tôi cũng có chút rắc rối khi bị cộng đồng hỏi thăm sức khoẻ về việc cho du sinh làm việc ở toàn soạn. Nhưng đàn anh, chú bác đã nương tay không biểu tình, không tẩy chay. Tôi ngày ngày đi làm phóng sự địa phương cho tờ báo, đi xin quảng cáo từng thương hiệu của đồng hương cũng được ủng hộ nhiều. Thỉnh thoảng gặp đồng chí là quảng cáo không trả tiền, đóng cửa tiệm và biến mất. Hôm nay còn lại đàn em tứ bề thọ khổ thời đi học. Nhưng nay Khánh đã vững vàng làm quản lý cho một nhà băng trong thành phố, có gia đình yên ổn với chồng người Việt, đã giải ngũ khỏi quân đội và đang làm việc cho hãng máy bay Boeing. Hai đứa con ngoan, một trai một gái còn đi học…
  
Tôi nghĩ đến thế hệ tôi qua Mỹ là đi cày miết để tạo điều kiện cho con cái ăn học, may là đi chính thức nên không gặp phiền hà với cộng đồng có trước như thế hệ Khánh đi du học, vừa làm vừa học còn bị cộng đồng phân biệt đối xử, lại phải tìm cách ở lại nước Mỹ này trong sự may rủi khó lường với tình yêu đến sau hôn nhân…
  
Qua chặng đường mấy chục năm nhìn lại, ai cũng phải sống bằng bản lĩnh, nghị lực của chính mình. Giúp nhau được chút gì cũng quý hơn khắt khe với nhau những điều không cần thiết. Tất cả ở sự lắng lòng mình lại sẽ thấy, nhưng người ta dễ sôi nổi, chạy theo phong trào hơn suy đi nghĩ lại trong lòng mình. Chia tay Khánh lần này tôi còn lại lời cảm ơn theo Khánh là muộn màng, nhưng tạ ơn trên đã cho gặp lại để em được nói. Còn tôi không biết là mình đúng hay sai khi đã tiếp tay một người bạn trẻ bỏ nước ra đi không hẹn ngày về.
 
 
Phan

Ý kiến bạn đọc
31/10/202423:47:32
Khách
Ai cũng biết chuyện Tăng Sâm giết nguời. Tin tức sai lặp đi lặp lại thì mọi nguời sẽ tin la thật. Chính Lenin đã nói là cứ loan tin giả lao' nhưng lặp lại nhiều lần qua năm tháng thì nguời ta sẽ tin là thật. Trong gần 50 năm qua, thế hệ sinh sau 1975 đuợc đào tạo tuyên truyền bởi chanh phu Cộng Sản từ lúc học vỡ lòng nên họ tin vào chế độ Cộng sản và tin rằng nguời tị nạn hải ngoại chỉ là hạng xấu xa, ba que, xỏ lá, tay sai để quốc Mỹ, phản quốc, có nợ máu với nhân dân, vv. Ngày hôm nay 90% dân ở VN sinh sau 1975 đều có suy nghĩ như cán bộ Cộng Sản, kiếm đuợc một du học sinh không có tư tuởng bị Cộng Sản nhồi sọ rất là khó. May ra thế hệ con cái ho. lớn lên bên Mỹ thì có tư tuởng cởi mở tự do hơn.
12/10/202415:05:43
Khách
Vấn đề của dân VN là do nhân gây đến quả. VN nay đạo đức suy đồi nên thế hệ trẻ bị Cộng Sản giáo dục trong 40 năm qua phần đông không có đạo đức, gần như 95% tư tuởng hành động không khác gì quản giáo vệ binh trại cải tạo, tuy đến Mỹ sống nhưng tin tuởng giáo điều chủ nghĩa cộng sản. Vì bị CS giáo dục từ nhỏ với những bài toán lớp 1 "Hôm qua chị Ba du kích phục kích giết 3 tên lính nguỵ cuớp bóc, hôm nay giết thêm 2 tên ngụy. Hỏi chị Ba giết đuợc bao nhiêu tên ngụy ac ôn? Truớc 1950, cảnh sát các tiểu bang miền Nam cũng huấn luyện chó thù ghét dân da đen, nay du học sinh đến Mỹ cũng đuợc CS huấn luyện căm thù. Bị tẩy não từ thở còn thơ nên giới trẻ lớn lên trong chế độ CS giống như hàng sản xuất bị hư hỏng từ xí nghiệp (defective products). Bản tính con nguời hay động vật thấy kẻ tử tế thì thân thiện, ai xấu thì tránh xa. Tuy nhiên cũng có một số ít nguời lớn lên trong chế độ CS biết đuợc cái sai của CS như Duơng Thu Huơng, Trần Ðĩnh, Buì Tín, nhưng nhìn vào du học sinh, khó mà đo đuợc lòng nguời. Ðáng tiếc là lãnh tụ CS sai lầm đưa dân VN đến huynh đệ tuơng tàn chỉ để đuợc nghèo đói lạc hậu thay vì giàu có như Ðài Loan, Hàn Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 411,250
Đôi lời phi lộ: hai tiếng "cuối đời" tôi dùng không mang ý nghĩa sau bài ký này tôi không tiếp tục viết nữa. Đây chỉ là cái tên tôi đặt dựa theo nội dung tôi muốn diễn đạt dưới đây. ... Kể từ khi việc đưa thân xác người Việt sống lưu vong, mong muốn được chôn cất tại quê nhà không còn rào cản, vợ chồng tôi chọn cách hỏa táng thân xác sau khi mất. Lựa theo cách này vừa đỡ tốn kém vừa dễ dàng mang tro cốt trở về quê hương. Điều mong ước được "lá rụng về cội" tôi đã dứt khoát. Riêng việc chọn cái cội ở nơi nào trên dải đất hình chữ S cũng chẳng dễ dàng gì! Bởi tôi sinh ra nơi đất Bắc, vợ tôi quê mãi tận cuối phương Nam, nên tôi mất khá nhiều thời gian lựa chọn, tìm kiếm.
Thời gian này, tôi được cất nhắc làm “quan lớn” trong một xứ đạo ở quận Cam (Orange County). Vì vừa vào làm việc trong Hội Đồng Mục Vụ của cộng đoàn, giáo xứ, nên tôi phải tập dần nhiều việc, như tập các câu kính thưa để lên phát biểu trước cộng đoàn cho quen, còn phải tập cách ăn nói cho chững chạc, vì bây giờ mình là quan rồi, dễ bị người ta “soi” lắm. Chẳng hạn như hôm trước, Quan Chủ Tịch Cộng Đoàn, gọi tôi ra ngoài nói chuyện:
Tôi thật sự cảm phục các thầy cô dạy tiếng Việt tại các trung tâm Việt ngữ. Tất cả là thiện nguyện viên. Họ hy sinh cuối tuần để làm một việc không những không lương mà còn phải đối đầu với những việc không vui như áp lực từ phụ huynh... Tôi xin nhắn gởi một điều đến phụ huynh, các thầy cô và các linh mục. Học tiếng Việt là một điều rất khó đối với các em vì trong tuần các em đi học cả ngày ở trường toàn nói và đọc tiếng Mỹ. Về nhà thì xem TV, coi internet, nghe radio cũng toàn tiếng Mỹ. Mỗi tuần vào nhà thờ học tiếng Việt chỉ có hai tiếng mà nhiều thầy cô lại cứ nói tiếng Mỹ với các em. Trớ trêu là sau khi học xong, lúc đi lễ, các linh mục lại giảng phúc âm cho các em bằng tiếng Mỹ. Xin các linh mục, các thầy cô và phụ huynh nói tiếng Việt với các em càng nhiều càng tốt...
...Em rất hãnh diện được phục vụ trong quân đội Hoa-Kỳ dù chỉ là một hạ sĩ quan. Em yêu thích và không hối tiếc chút nào những việc em làm trong đời lính. Chỉ có một điều duy nhất hối tiếc ám ảnh em đến nay là người bạn đồng đội tri bỉ tri kỷ của em ngã gục phanh thây mà em không có mặt ở đó. Nó học chung với em sáu tháng Quân Trường Fort Sill, Oklahoma, từ tháng May 7-November 15, 1998, rồi hai đứa tình nguyện qua Iraq là chiến trận nguy hiểm nhất lúcđó,” Hùng ngửng đầu nói dồn dập với đôi mắt dõi nhìn trời cao như đang tìm người chiến sĩ đồng đội xưa. “Thương mến nhau còn hơn anh em ruột mà!”...
Chị Tâm trưởng nhóm Yoga gần bẩy mươi tuổi sở hữu thân hình cao thon săn chắc như người mẫu, chị nghiện bộ môn này vài thập niên trước lúc chị còn đi làm. Về hưu buồn tay buồn chân, chị rủ vài bạn thân đến nhà chị tập cho vui, tiếng lành vang xa, bây giờ nhóm của chị bành trướng đến mười mấy người, cô Ba là thành viên mới toanh thọ giáo chị. Cô vốn kín tiếng lại là ma mới nên chỉ nghe các chị hóng đủ thứ chuyện trên đời, thỉnh thoảng cô góp một câu giúp vui, tuyệt nhiên cô câm như hến khi có người cao giọng dạy đời hay chê bai ai đó.
Khi một mình trong tứ bề hiu quạnh nên tự thân cảm thấy lẻ loi. Đó là cảm nhận riêng tôi khi ngồi đợi xe đò ở vùng kinh tế mới. Thời ấy không mấy ai có cái đồng hồ đeo tay để biết giờ giấc, chỉ biết giấc sáng sớm khi mặt trời chưa mọc sẽ có chuyến xe đò duy nhất trong ngày về Sài gòn, là xe ngày hôm qua từ Sài gòn lên. Nhớ những hôm sương mù bao phủ núi rừng nên tầm nhìn hạn chế càng cô độc vì cô quạnh, cảm giác lẻ loi len lỏi vào tâm khảm hay từ trong tâm khảm lan toả ra núi rừng âm u, sự lẻ loi và bất lực cho đến khi có ánh đèn vàng mờ đục xuất hiện trong màn sương mù đặc như nước vo gạo là mừng rỡ hôm nay được về nhà vì nhiều hôm ngồi đợi tới mặt trời mọc cũng không có xe vì xe hư xe hỏng gì đó, người ta không chạy ...
... Ừ nhỉ, cũng đến lúc phải quyết định đặt tên cho con là vừa. Mình cứ lo nào là trang trí căn phòng, mua quần áo tã lót, sữa… cho con mà quên mất điều quan trọng là phải cho con một cái tên thật ý nghĩa, chứ đâu phải gọi thằng cu bé là được đâu! Mà biết làm sao khi bên ngoại muốn đặt tên này, bên nội lại muốn đặt tên kia thì làm sao giải hòa được hai bên đây?! Từ chối bên ngoại hay bên nội cũng đều sợ làm buồn lòng họ, vì đây là cháu đầu lòng trong họ nên ai cũng muốn tên mình đưa ra được cha mẹ nó chọn!...
... Ra về tôi suy nghĩ liên miên về tình bạn lính, bạn tù, bạn đời thật quý “Cuộc sống chẳng có gì đáng quý hơn là hạn chế làm tổn thương người khác và xoa dịu một tâm hồn khổ đau với tất cả những gì mình có thể” (Olive Schreineray), anh Thân đến với anh Mùi trong lúc này thật thích hợp vì họ đã hiểu nhau và hơn hết là đồng cảnh ngộ. Còn tình cha con thương yêu quấn quýt thì đẹp như một bài ca...
Hồi nhỏ, khi tôi học trường làng, ngoài câu cách ngôn: “Tiên học lễ, hậu học văn” thầy giáo còn cho viết vào vở bài học thuộc lòng đầu tiên: Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”(khuyết danh) Bài học thuộc lòng này được cha truyền con nối và theo tôi suốt cả cuộc đời. Tôi nhớ thời thơ ấu, vào dịp Tết, các chú thím, cô cậu đem biếu ông bà nội hộp trà, cân mứt… Trong năm, vườn nhà thu hoạch được thứ gì thì đem đến cho ông bà thứ ấy - khi quả bí, lúc trái bầu… Khi ông bà ốm đau thì sớm hôm thăm viếng, thuốc thang… Như thế coi như làm “tròn chữ hiếu.”
... Mặc hai bên lời qua tiếng lại, ông lủi thủi ứa nước mắt đi vào phòng. Trời mùa đông sẫm tối thật nhanh. Bóng tối chườm lạnh khoảng sân bên ngoài và bao trùm lấy căn phòng nhỏ. Ông vẫn đứng lặng yên như pho tượng, cảm giác như mình đang đi về phía hư không. Tuổi già giọt lệ như sương. Nỗi đau của người già không bật thành tiếng khóc, mà thấm vào từng thớ thịt, ray rứt từng hơi thở. Ông nghe ngực mình nhoi nhói như muốn vỡ tung ra. Có tiếng bát đũa khua lanh canh, rồi mùi thức ăn thơm nồng bốc lên. Không ai mời ông ra ăn cơm , mà ông cũng không thấy đói. Ông chỉ muốn được nằm xuống rồi ngủ mãi một giấc dài không bao giờ thức dậy. Cuộc sống của ông là những chuỗi ngày đau đáu. Co ro với cái lạnh của mùa đông miền Bắc Mỹ, không máy sưởi , tay chân buốt cóng, ông thấm thía câu nói: Cha mẹ thương con biển hồ lai láng, Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày . Đành vậy chứ biết sao. Nước luôn chảy từ trên cao xuống thấp mà...
Nhạc sĩ Cung Tiến