Hôm nay,  

khánh…

10/10/202412:12:00(Xem: 1651)
TG Phan Khoi nguyen VVNM 2018 cat banh tai le trao giai VVNM 2018
TG khôi nguyên Phan đang cắt bánh kỳ niệm Lễ Trao Giải VVNM 2018
 
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Bài viết dưới đây ghi lại vài suy nghĩ tản mạn của tác giả qua câu chuyện về người du học sinh Việt Nam cần cù chịu khó để đi đến thành công.
 
*
 
Tôi biết Khánh đã lâu, từ khi còn là cô bé du sinh, vô xin việc làm thêm ở toà báo để có thêm thu nhập. Nói nhiêu đó đã đủ biết Khánh không phải con cán bộ qua Mỹ ăn chơi bằng diện du sinh. Ngặt thời ấy, cộng đồng người Việt ở địa phương còn chống Cộng dữ lắm nên tôi chỉ biết tôn trọng những người bị bứng ra khỏi quê hương, sống đời hải ngoại. Tuy cái ăn, cái mặc, chỗ ở, việc làm; đặc biệt là tự do đều rộng mở ra tương lai tươi sáng; chỉ nỗi nhớ người thân, quê nhà canh cánh trong lòng người xa quê.
 
Chuyện kể của người anh trong gia đình nghe mới biết thương những người đến Mỹ từ năm 1975. Trời mùa đông lạnh lẽo bên vùng Pennsylvania, tuyết đá tới lái xe không được nên anh tôi đi bộ ra cửa hàng gần nhà nhất để mua cho con anh bình sữa. Trong những người khách ít ỏi của cửa hàng nhỏ vùng quê lại gặp hôm thời tiết xấu nên thưa vắng, anh tôi bỗng nghe được giọng nữ hát ngân nga một mình bằng tiếng Việt. Thế là cả một trời quê hương trong ký ức ùa về làm anh chết lặng đi giây lát. Người phụ nữ rời cửa tiệm, anh tôi mới hoàn hồn bước theo và cất tiếng hỏi, “Chị ơi, chị là người Việt hả?” Người phụ nữ dừng bước, quay lại nhìn anh tôi. Cô không nói lời nào mà hai dòng nước mắt lăn xuống gò má. Hồi trấn tỉnh lại cô mới nói được, “Tôi tưởng tôi không bao giờ được nghe tiếng Việt nữa…”
 
Người phụ nữ Việt lấy chồng là nhân viên Mỹ sang Việt Nam thời chiến tranh nên theo chồng về Mỹ năm 1975, anh tôi là lính Việt cũng di tản năm 1975. Hai người Việt không ngờ được nghe tiếng Việt ở xứ sở lạnh lùng và xa lạ. Mối quan hệ của hai gia đình không họ hàng mà thân như ruột thịt đến tận bây giờ. Có lẽ câu chuyện trong nhà đã cho tôi cái nhìn bớt khắt khe hơn với những người Việt đến Mỹ sau cuộc di tản lớn nhất thế giới cuối thế kỷ hai mươi và phong trào vượt biên sau đó trong nhiều năm. Tiếp theo là những người Việt đến Mỹ với những chính sách nhân đạo của chính phủ Hoa kỳ cho bảo lãnh thân nhân qua chương trình O.D.P vào những năm 1980 tới 1990; tiếp theo nữa là chương trình H.O cho tù cải tạo… Những người đến sau không có gì trở ngại với những người Việt đi trước từ năm 1975. Nhưng khi có sự xuất hiện của giới du học sinh Việt Nam qua Mỹ theo học thì mọi chuyện không còn tương thân tương ái như người Việt đến trước thường giúp đỡ người đến sau ổn định cuộc sống nơi xứ người.
 
Khi những người Việt xa xứ đã hình thành được cộng đồng người Việt dù nhỏ đến đâu nơi hải ngoại cũng gọi là Cộng đồng Người Việt Quốc gia; với ngôi chợ nhỏ đến đâu nhưng có bán gạo với nước mắm thì gọi là chợ Việt; tiệm ăn nhỏ đến đâu cũng trương bảng hiệu “Vietnamese Restaurant”. Mối liên kết của người xa xứ như bản năng sinh tồn, như ca dao tục ngữ Việt có câu, “Họ hàng xa không qua láng giềng gần”, tối lửa tắt đèn có nhau. Những sự giúp đỡ của đồng hương đến trước luôn ở trong lòng biết ơn của người đến sau, những sự giúp đỡ bây giờ xem là chuyện nhỏ nhưng hồi xưa lớn lắm như giúp xin việc làm, chở đi học tiếng Anh ở nhà thờ, chở đi làm khi chưa có bằng lái… Người Việt có tình đồng bào truyền thống đã thành văn hoá Việt. “Quan nhất thời dân vạn đại”, hồi nhỏ đi học làm sao hiểu được ý nghĩa sâu xa trong thành ngữ tiền nhân để lại. Bây giờ mới thấy đất nước đã thay triều đổi đại nửa thế kỷ qua, nhưng tình đồng bào qua cơn bão tố số 3 - Yagi trong nước vừa qua. Nhìn những chiếc xe bus, xe vận tải, xe hơi chạy chậm lại để tạo thành bức tường chắn gió bão cho những chiếc xe hai bánh qua cầu mà chợt hiểu ra “dân vạn đại”; quan chỉ nhất thời một thể chế chính trị nào đó thôi như thời phong kiến, thời thuộc địa đều qua đi… chỉ tinh thần dân tộc, truyền thống, văn hoá là mãi mãi.
 
Nhưng sự có mặt của giới du học sinh không làm thay đổi cộng đồng người Việt ở hải ngoại đã hình thành vì họ cũng không đụng chạm gì tới cộng đồng có trước. Họ đến đây không vì lý do chính trị, ý thức hệ gì hết; chỉ đơn giản là đi học để có bằng cấp ở Mỹ. Nhưng những rắc rối đã xảy ra với họ, những rắc rối ngoài ý muốn cho cả đôi bên cộng đồng người Việt hải ngoại và du sinh. Một tiệm phở Việt mà nhận du sinh vào bưng phở, dọn bàn cũng bị đồng hương tẩy chay; một tờ báo nhận du sinh làm việc kiếm thêm cũng bị đồng hương biểu tình chống đối…
 
Mất nước đã mất, người đi kẻ ở đã quen dần với hoàn cảnh sống trong nước thay đổi chế độ, người ra hải ngoại lầm lũi đi làm. Phe miền Nam tưởng niệm ngày ba mươi tháng Tư ở hải ngoại năm thứ mười rồi hai mươi, ba mươi năm trôi qua vẫn không có một tổ chức nào xứng danh phục quốc, những người lính cũ đã già, thú đau thương của chú bác bây giờ là đến Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 06 hằng năm, chú bác mặc quân phục theo binh chủng, cầm cờ binh chủng đi sau cờ tổ quốc diễu hành từ Trụ sở Cộng đồng Người Việt Quốc gia, đi loanh quanh qua khu thương mại của người Việt bên cạnh rồi trở về Trụ sở ăn nhậu. Ngày 30 tháng 04 cũng vậy, thêm hai lễ Thượng kỳ và Hạ kỳ ở Trụ sở Cộng đồng là tròn năm. Và chú bác mỗi năm mỗi vắng theo tuổi già sức yếu, còn lại những ông già chống gậy mặc quân phục, nhìn buồn như ba mươi tháng Tư quanh năm, ngày nào cũng là ba mươi tháng tư khi đi ngang qua Trụ sở Cộng đồng Người Việt Quốc gia với bức tượng Việt-Mỹ xây hoài vẫn dang dở vì thiếu kinh phí đã mấy chục năm…
 
Khánh năm ấy còn trẻ lắm nhưng suy nghĩ già hơn tuổi đời, biết thông cảm cho người khác khi Khánh nói với tôi, “Em cần việc lảm thêm để kiếm thêm thu nhập, em đã đến hỏi hai tờ báo nhưng đều bị từ chối. Anh cũng đừng ngại từ chối vì em hiểu!”
 
Tôi lúng túng với người bạn trẻ biết nói câu, “em hiểu…” Đã hiểu rồi thì còn hỏi làm gì? Em học trường nào, sách gì mà thiếu câu, “đừng hỏi người khác một câu khó trả lời!” Nhưng tôi nghe trong lòng mình sự thương cảm tuổi trẻ Việt Nam sau chiến tranh cũng chẳng hơn gì tôi thời khói lửa. Những suy nghĩ về đêm tôi thường ở lại tòa soạn một mình vì thói quen làm việc yên tĩnh, thích vắng vẻ… lại thấy mình là người đi trước Khánh, nên giúp đỡ đàn em hơn là từ chối quách đi cho khỏi rắc rối với cộng đồng. Nhưng tôi làm sao quên mình từng đi học xa nhà, dù không xa như Khánh hiện tại. Tôi từng có những suy nghĩ chưa trưởng thành khi hỏi người khác một câu khó trả lời như, “em có thương anh không?” Làm cho cô bạn học phải tránh mặt từ đó! Tuổi trẻ với cảnh sống cơm đường cháo chợ, hồi hết tiền trả căn chung cư mà cả đám thuê để ở, nói cả đám chứ xoè bàn tay đếm không hết năm ngón những đứa có hùn tiền, những bạn bè tiền ăn còn không có thì tiền đâu hùn trả tiền thuê phòng. Thế là bị đuổi cổ ra khỏi nhà, lũ trẻ đi ngủ tá túc nhà bạn hay phòng tập thể của mấy ông thầy giáo, sáng gặp lại nhau trong trường như không có gì xảy ra đêm qua. Nhớ thời tứ bề khó khăn nhưng cùng đường thì trở về nhà cha mẹ ăn nhờ ở đậu vài hôm nhưng cũng đỡ hơn du sinh nghèo bây giờ, đâu phải muốn về nhà là về được vì xa quá, vì tiền đâu mà về? Những đứa con nhà giàu, con cán bộ sang đây ăn chơi thì nói làm gì. Những “Khánh” vì tương lai nên đi du học, nhưng con nhà nghèo thì phải đi làm thêm kiếm sống chứ cha mẹ đi cày trong nước, đồng lương công nhân viên hay giáo chức ăn lương nhà nước thì làm sao chu cấp nổi cho con du học Mỹ.
 
Hiểu như vậy thấy bớt nặng lòng quốc-cộng, sự phân biệt người trong nước với ngoài nước một thời đã qua. Những người bạn trẻ đã tốt nghiệp ra trường, dĩ nhiên họ tìm cách ở lại nhiều hơn về vì đã quen, đã hấp thụ cuộc sống tự do dân chủ; đã thoát khỏi nhà tù bao la thì ai còn muốn quay lại làm gì! Họ sống với dư luận cộng đồng thường xem thường hành vi tìm cách ở lại riết rồi cũng quen với cộng đổng ít ai nhớ lại những cuộc vượt biên của người Việt năm xưa với du sinh bây giờ cũng là chạy trốn, chỉ là những chương trình định cư cho thuyền nhân Việt Nam không còn nữa nên những người chạy trốn sau bị những người chạy trốn trước phân biệt.
 
Thế là những du sinh làm việc với tôi một thời vừa học vừa làm thêm kiếm sống cũng đã tuổi ba mươi, bốn mươi. Phần lớn đã ổn định cuộc sống với gia đình riêng sau khi kết hôn với người có quốc tịch. Rất hiếm khi tôi nghe được một du sinh sau khi học xong đã trở về trong nước sinh sống và làm việc. Họ thường là những cá biệt như con cán bộ học xong thì về bởi con cán bộ lại tốt nghiệp đại học bên Mỹ thì cái ghế họ ngồi còn cao hơn cả cha họ, tiền họ kiếm được bảo đảm nhiều hơn làm anh kỹ sư hãng xưởng bên Mỹ. Trường hợp thứ hai là bất tài vô dụng thì về cho cha mẹ nuôi tiếp như những bạn trẻ sống đời du sinh mà không biết nấu nồi cơm dù đã là nồi cơm điện.
 
Không phải ngẫu nhiên nhớ lại và nói đến những ngưởi bạn trẻ du sinh trong quá khứ. Tôi đi nha sĩ mỗi sáu tháng có bảo hiểm trả thì sao không đi để kiềm tra, làm sạch răng mình. Không ngờ gặp lại Khánh cũng là khách hàng cùng nha sĩ với tôi. Tôi ngỡ ngàng khi có người phụ nữ trẻ đẹp nhìn tôi như câu hỏi khó, rồi đột ngột hỏi, “Anh có nhìn ra em không?”
 
“Ồ, Khánh. Lâu quá không gặp…”
 
“Em mừng quá. Mừng gặp lại anh…”
 
“Để trả thù hay thanh toán mà mừng dữ vậy…”
  
“Cả hai…”
 
Chúng tôi phá lên cười như bạn bỗng thấy cây ớt mình trồng đã ra hoa kết trái. Khánh du sinh làm kế toán cho toà soạn ngày nào đã thôi ăn mì gói sống qua ngày nên bớt cằn cỗi khi còn rất trẻ. Cuộc hội ngộ bất ngờ, ngắn ngủi nhưng để lại dư âm… Tôi không quá khắt khe với du sinh khi nhận họ làm việc thêm giờ kiếm sống lúc theo học. Hồi ấy, tôi cũng có chút rắc rối khi bị cộng đồng hỏi thăm sức khoẻ về việc cho du sinh làm việc ở toàn soạn. Nhưng đàn anh, chú bác đã nương tay không biểu tình, không tẩy chay. Tôi ngày ngày đi làm phóng sự địa phương cho tờ báo, đi xin quảng cáo từng thương hiệu của đồng hương cũng được ủng hộ nhiều. Thỉnh thoảng gặp đồng chí là quảng cáo không trả tiền, đóng cửa tiệm và biến mất. Hôm nay còn lại đàn em tứ bề thọ khổ thời đi học. Nhưng nay Khánh đã vững vàng làm quản lý cho một nhà băng trong thành phố, có gia đình yên ổn với chồng người Việt, đã giải ngũ khỏi quân đội và đang làm việc cho hãng máy bay Boeing. Hai đứa con ngoan, một trai một gái còn đi học…
  
Tôi nghĩ đến thế hệ tôi qua Mỹ là đi cày miết để tạo điều kiện cho con cái ăn học, may là đi chính thức nên không gặp phiền hà với cộng đồng có trước như thế hệ Khánh đi du học, vừa làm vừa học còn bị cộng đồng phân biệt đối xử, lại phải tìm cách ở lại nước Mỹ này trong sự may rủi khó lường với tình yêu đến sau hôn nhân…
  
Qua chặng đường mấy chục năm nhìn lại, ai cũng phải sống bằng bản lĩnh, nghị lực của chính mình. Giúp nhau được chút gì cũng quý hơn khắt khe với nhau những điều không cần thiết. Tất cả ở sự lắng lòng mình lại sẽ thấy, nhưng người ta dễ sôi nổi, chạy theo phong trào hơn suy đi nghĩ lại trong lòng mình. Chia tay Khánh lần này tôi còn lại lời cảm ơn theo Khánh là muộn màng, nhưng tạ ơn trên đã cho gặp lại để em được nói. Còn tôi không biết là mình đúng hay sai khi đã tiếp tay một người bạn trẻ bỏ nước ra đi không hẹn ngày về.
 
 
Phan

Ý kiến bạn đọc
31/10/202423:47:32
Khách
Ai cũng biết chuyện Tăng Sâm giết nguời. Tin tức sai lặp đi lặp lại thì mọi nguời sẽ tin la thật. Chính Lenin đã nói là cứ loan tin giả lao' nhưng lặp lại nhiều lần qua năm tháng thì nguời ta sẽ tin là thật. Trong gần 50 năm qua, thế hệ sinh sau 1975 đuợc đào tạo tuyên truyền bởi chanh phu Cộng Sản từ lúc học vỡ lòng nên họ tin vào chế độ Cộng sản và tin rằng nguời tị nạn hải ngoại chỉ là hạng xấu xa, ba que, xỏ lá, tay sai để quốc Mỹ, phản quốc, có nợ máu với nhân dân, vv. Ngày hôm nay 90% dân ở VN sinh sau 1975 đều có suy nghĩ như cán bộ Cộng Sản, kiếm đuợc một du học sinh không có tư tuởng bị Cộng Sản nhồi sọ rất là khó. May ra thế hệ con cái ho. lớn lên bên Mỹ thì có tư tuởng cởi mở tự do hơn.
12/10/202415:05:43
Khách
Vấn đề của dân VN là do nhân gây đến quả. VN nay đạo đức suy đồi nên thế hệ trẻ bị Cộng Sản giáo dục trong 40 năm qua phần đông không có đạo đức, gần như 95% tư tuởng hành động không khác gì quản giáo vệ binh trại cải tạo, tuy đến Mỹ sống nhưng tin tuởng giáo điều chủ nghĩa cộng sản. Vì bị CS giáo dục từ nhỏ với những bài toán lớp 1 "Hôm qua chị Ba du kích phục kích giết 3 tên lính nguỵ cuớp bóc, hôm nay giết thêm 2 tên ngụy. Hỏi chị Ba giết đuợc bao nhiêu tên ngụy ac ôn? Truớc 1950, cảnh sát các tiểu bang miền Nam cũng huấn luyện chó thù ghét dân da đen, nay du học sinh đến Mỹ cũng đuợc CS huấn luyện căm thù. Bị tẩy não từ thở còn thơ nên giới trẻ lớn lên trong chế độ CS giống như hàng sản xuất bị hư hỏng từ xí nghiệp (defective products). Bản tính con nguời hay động vật thấy kẻ tử tế thì thân thiện, ai xấu thì tránh xa. Tuy nhiên cũng có một số ít nguời lớn lên trong chế độ CS biết đuợc cái sai của CS như Duơng Thu Huơng, Trần Ðĩnh, Buì Tín, nhưng nhìn vào du học sinh, khó mà đo đuợc lòng nguời. Ðáng tiếc là lãnh tụ CS sai lầm đưa dân VN đến huynh đệ tuơng tàn chỉ để đuợc nghèo đói lạc hậu thay vì giàu có như Ðài Loan, Hàn Quốc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,463
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Nhạc sĩ Cung Tiến