Hôm nay,  

Kẻ Thù Thành Anh Em

19/02/202418:52:00(Xem: 2331)

Với bài "Hành Trình Tiếng Việt của Một Người Mỹ", tác giả đã nhận Giải Viết Văn Việt ngữ Trùng Quang năm đầu tiên, 2013. Ông là một cựu chiến binh Mỹ từng đóng quân ở Biên Hoà và kết hôn với một phụ nữ Việt. Ông bà có 7 người con, hiện ở Ohio. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông, ngày 18 -12-2012 đã kể chuyện tình 40 năm hạnh phúc của Ông Bà Sáu. Năm 2018 đánh dấu 45 kết hôn của ông bà Tuyết - Steve Brown. Đúng thời điểm đặc biệt này, ngày 2 tháng 5 năm 2018, Bà Sáu Tuyết thình lình qua đời vì cơn bệnh bất ngờ. Bài viết của ông Sáu tưởng niệm “Cuộc Đời Của Tuyết” đã được phổ biến ngày 27/07/2018. Sau đây, là bài viết mới nhất của Ông.

*

Mùa Xuân năm 1993, Tuyết, vợ tôi, trở về quê hương lần đầu tiên sau 20 năm ở Mỹ. Khi xe ngừng trước nhà người chị tại Biên Hòa, có một người đàn ông đứng bên đường mà Tuyết không nhận ra. Sau khi nói chuyện một lát, Tuyết mới nhận ra đó là người anh ruột. Úi chà, sau 20 năm những người trong gia đình đã thay đổi một cách không ngờ được.

Một trong số người Tuyết gặp lần đó là anh Tư. Anh là chồng của chị Tư, chị ruột của Tuyết. Hai người gặp nhau sau năm 1975, sau khi hai người chồng trước của chị Tư đã qua đời. Trước kia anh Tư là bộ đội và đảng viên cộng sản. Quê anh ấy ở Hải Dương, nơi mà anh đã rời xa vào  năm 1967 và theo đường mòn Hồ Chí Minh đi qua hai nước Lào và Campuchia để xâm nhập vào Nam. Sáu tháng sau, trung đoàn của anh đã tới tỉnh Bình Long, biên giới Việt Nam. Trên đường đi một nửa số người trong đơn vị đã chết.

Chỉ mấy tuần sau khi đến Bình Long, anh Tư bị thương và bị bắt tại Bình Dương. Anh được mổ cánh tay bị thương tại căn cứ Long Bình rồi bị chuyển qua trại tù binh tại đảo Phủ Quốc. Anh ấy bị giam ở đó cho đến khi hòa ước Ba-lê được ký kết cuối tháng 1 năm 1973.

Sau khi rời trại tù binh anh Tư lại đi hành quân tại vùng Tây Ninh thêm hơn hai năm nữa. Sau khi lực lượng Cộng Sản lấy hết miền Nam cuối tháng Tư năm 1975, anh Tư đóng quân ở Biên Hòa. Rồi anh ấy gặp chị Tư và họ lập gia đình. Họ phải dọn về khu kinh tế mới gần thành phố Biên Hòa. Dĩ nhiên người theo triết lý của Cộng Sản là vô thần, và anh Tư cũng vậy.

Còn tôi, tôi tình nguyện vô Thủy Quân Lục Chiến Mỹ năm 17 tuổi, vào mùa Xuân năm 1969. Vì vậy, chỉ mười ngày sau khi tốt nghiệp trung học tôi lên đường đi huấn luyện. Lúc đó, đại đa số lính mới được gởi sang Việt Nam sau khi huấn luyện xong, nhưng tôi được lịnh đóng quân tại một căn cứ ở tiểu bang South Carolina. Khi đó, tôi yêu cầu đi qua Việt Nam nhưng họ không chấp nhận.

Đến gần cuối năm 1971 tôi được lịnh đi qua Nhật Bản, và tôi đến căn cứ TQLC ở Nhật vào đầu năm 1972. Lúc đó hầu hết các đơn vị Mỹ đã rút ra khỏi VN rồi. Nhưng đến tháng 3 lực lượng Cộng Sản tấn công rất mạnh mẽ tại nhiều nơi ở Việt Nam. Trong tháng 5 đơn vị tôi được lịnh trở lại VN.

Ngay sau khi tôi đến đó thì pháo cộng sản giết vài lính VNCH và một số khác bị thương. Tình hình như thế tiếp tục suốt tám tháng rưỡi chúng tôi ở đó. Hai ngày trước khi tôi trở lại Nhật Bản, lực lượng Cộng Sản lại pháo vô, cũng có người bị chết và bị thượng như bao nhiêu lần trước. Qua kinh nghiệm ở Việt Nam, tôi hiểu rõ sự xấu xa và tàn ác vô cùng của chủ nghĩa cộng sản.

Sau khi tôi ra khỏi quân đội, tôi tham gia một nhóm chống Cộng ở Mỹ được vài năm. Đến tháng 3 năm 1975 có một người kể cho tôi nghe về sự ban cho của Đức Chúa Trời. Đó là sự sống đời đời trong Đức Chúa Giê-xu. Qua những gì Kinh Thánh nói, tôi biết tôi được tha tội và đã trở thành là con cái của Đức Chúa Trời. Tất cả những điều đó hoàn toàn bởi ân điển của Đức Chúa Trời.

Trở lại chuyến đi năm 1993 của Tuyết. Sau khi Tuyết ở nhà của người chị khoảng một tuần lễ thì anh Tư yêu cầu Tuyết giải thích tin mừng của Đức Chúa Giê-xu. Vài ngày sau, anh ấy lại yêu cầu Tuyết giải thích về Chúa Giê-xu một lần nữa. Ngay sau đó anh Tư tin nhận Đức Chúa Giê-xu liền.

Khoảng chừng một tuần lễ sau, anh Tư sắp xếp một tiệc nhỏ tại nhà, anh có mời các bạn bè gồm có vài công an và đảng viên khác nữa. Trước khi ăn cơm anh Tư đứng lên mà nói, "Tôi đã theo Hồ Chí Minh 45 năm nhưng không thấy tình thương. Từ hôm nay tôi sẽ đi theo Đức Chúa Giê-xu".

Khi Tuyết nghe anh ấy nói vậy thì mừng lắm, và em ấy gọi điện thoại báo cho tôi biết ngay sau đó. Thật là quá sức tưởng tượng! Tại nước cộng sản mà anh Tư dám can đảm nói như thế. Nếu Chúa không ban ơn khiến cho anh Tư nói những lời đó thì chắc là không bao giờ có chuyện này xảy ra.

Tháng 1 năm 1994, vợ chồng tôi lại đến Việt Nam và ở tại nhà chị vợ tôi. Hai lần trước đi Việt Nam tôi chưa biết nói tiếng Việt, nhưng lúc đó tôi đã nói chuyện với người ta được. Khi chúng tôi ra khỏi sân bay ở tại Sài-Gòn thì gặp anh chị Tư liền. Sau khi tới nhà ở Biên Hòa chúng tôi có nhiều thì giờ để trò chuyện.

Anh Tư kể cho tôi nghe vài ký ức khi anh khi đi trên đường bộ xuyên qua nước Lào, nước Campuchia để xâm nhập vào miền Nam. Có một lần lính Cộng Sản bắt được một người lính Mỹ. Họ muốn giết người lính đó tại chỗ, nhưng một sĩ quan Bắc Việt đã ngăn cản và cứu người đó tạm thời. Anh Tư có trách nhiệm gác người đó. Anh Tư nói người lính Mỹ đó không biết nói tiếng Việt gì cả, khi nào họ muốn uống nước thì chỉ ra dấu bằng tay. Sau đó cấp trên đem người đó đi.

Một lần khác anh Tư nói là anh nằm trong rừng và thấy máy bay trực thăng Mỹ bay chậm chậm ở trên. Anh Tư thấy một người lính cầm súng liên thanh nhìn xuống chăm chú, nhưng sau vài phút họ bay đi nơi khác. Khi nghe vậy tôi nhớ ngay một kinh nghiệm y như thế, và tôi là người trong máy bay trực thăng cầm súng mà nhìn xuống. Lúc đó tôi suy nghĩ, "Chắc là có kẻ thù ẩn núp trong rừng đó nhưng tôi không thấy được”. Nhưng chuyện đó của anh Tư xảy ra năm 1968, còn của tôi thì năm 1972.

Trong vòng mấy năm sau 1994 tôi hay đi Việt Nam mỗi năm. Trong những lần đó anh Tư và tôi đi nhiều nơi với nhau. Cả hai chúng tôi có nhiều cơ hội để kể cho người ta nghe về tin lành của Đức Chúa Giê-xu. Lắm lúc người ta thấy thật là mâu thuẫn khi một cựu bộ đội và một cựu lính Mỹ đi chung, nhưng thật ra đó là do Đức Chúa Trời đã xếp đặt để cho người ta thấy rằng sức mạnh của Ngài có thể làm cho hai kẻ thù trở thành anh em trong Chúa. Một sự liên hệ mãi mãi. Lòng thù ghét không còn nữa và được thay bằng tình thương thật sự. Thật là phép lạ mà chỉ duy nhất Đức Chúa Trời có thể làm được mà thôi!

Trong Kinh Thánh có nói, “Có sự vui mừng ở thiên đàng khi một kẻ có tội ăn năn”. Vậy khi chúng tôi, hai kẻ có tội, cùng ăn năn thì sẽ có sự vui mừng gấp đôi ở thiên đàng cũng như trong đời sống của những người xung quanh. Quyền năng của Đức Chúa Trời là như thế. 

Sáu Steve Brown 

 

 

 

Ý kiến bạn đọc
20/02/202421:09:49
Khách
" Lắm lúc người ta thấy thật là mâu thuẫn khi một cựu bộ đội và một cựu lính Mỹ đi chung, nhưng thật ra đó là do Đức Chúa Trời đã xếp đặt để cho người ta thấy rằng sức mạnh của Ngài có thể làm cho hai kẻ thù trở thành anh em trong Chúa. Một sự liên hệ mãi mãi. Lòng thù ghét không còn nữa và được thay bằng tình thương thật sự. "

Chủ nghĩa cộng sãn trổi dậy do đạo đức con người đi xuống quá thấp như thời Sa Hoàng Nga dưới sự ãnh hưỡng của Rasputin người thuộc vào Orthodox Thiên Chúa giáo, ở Trung Hoa dưới thời nhà Mãn Thanh và sự suy đồi của Phật giáo qua nhận xét của Hòa Thượng Hư Vân trong tác phẩm tự thuật của ông. Khi ông nói chuyện với các sỹ quan cao cấp của Quốc Dân Đãng vì họ có ác cảm với tôn giáo này và cho lá 1 trong những nguyên nhân đẩy phe nông dân, công nhân vào phe cộng sãn.

Chủ nghĩa tư bản phe đãng-- chủ nghĩa tư bản dưới sự lãnh đạo của những người có quan hệ với phe cộng sãn, chủ nghỉa này xảy ra ở Nga vào năm 1991, Trung Hoa vào năm 1978 dưới thời Đặng tiểu Bình, và 1986 ở Việt Nam dưới chính sách gọi là đổi mới.

Trong 10 điều răn thì điều răn "You shall not murder." có nghĩa là không được sát sanh cho người và các súc vật, vì súc vật được xếp vào loại chúng sinh có cảm xúc, cho nên việc thuần chay -- vegan được coi là một phép bố thí cho sinh mạng của chúng sinh. Nếu sát nghiệp quá nhiều thì sẽ có cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa là bệnh tật như Covid 19,.... chiến tranh liên tục như Ukraine, Israel, Myanmar, .... Thiên tai xảy ra liên tục, nhân họa như khủng hoãng kinh tế, ....

"Vinh Danh Thiên Chúa trên Trời, Bình An dưới thế cho người Thiện Tâm" Người Thiện Tâm hay Người công chính là người tuân thủ các giới luật như Mười Điều Răn, nếu sát nghiệp xảy ra thì sẽ có hậu quả xảy ra cho những dân tộc không đũ phước báu, bây giờ là các dân tộc Nga-Ukraine, Do Thái và dân Arab, dân Myanmar, ....Theo lý thuyết thì cơn thịnh nộ của Thiên Chúa lần cãnh cáo kéo dài từ 2019 đến 2026, và nếu tình hình không cải thiện thì cơn thịnh nộ lần thứ 2 sẽ từ 2027 đến 2031, nghe nói rất là thảm thiết, đầy máu và nước mắt. .... Thành ra nên nghe lời Chúa Jesus "If you love me, please love my Commandments".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,856
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Nhạc sĩ Cung Tiến