Hôm nay,  

Cò Mồi

24/01/202413:32:00(Xem: 2769)

bo sach vvnm

 

Tác giả qua Mỹ năm 1991 và đang sống tại Huntington beach, hiện là kỹ sư phần mềm cho  Raytheon. Tác giả tham gia VVNM từ năm 2002 và nhận giải Danh Dự năm 2017. Sau đây là bài mới nhất của Ông mô tả chi tiết và dí dỏm về cách cò mồi trong kỹ nghệ làm show tại Hoa Kỳ.

 

*

 

Ở Mỹ trên ba mươi năm, tôi may mắn được hoặc đi xem hoặc tham gia vào các chương trình truyền hình giải trí của Mỹ qua những mốc thời gian khác nhau.  Ba mươi năm là một quãng thời gian khá dài và vì thế các chương trình truyền hình của Mỹ cũng thay hình đổi dạng rất nhiều.

 

Mùa Xuân năm 1994, tôi ghi danh học lớp phê bình điện ảnh tại trường Pasadena City College.   Ông thầy phát vé cho sinh viên chúng tôi đi xem chương trình ghi hình Dennis Miller trên đài HBO.  Trước khi đi xem chương trình quay tại phim trường, tôi đã biết đây là chương trình văn nghệ tạp kỹ với mở màn là tiết mục tấu hài độc thoại của anh Dennis.  Những tin tức thời sự được anh Dennis xào nấu thành những câu chuyện cười rất duyên dáng.  Sau đó là tiết mục phỏng vấn với khách mời hầu hết là những người nổi tiếng trong nhiều lãnh vực khác nhau như điện ảnh, âm nhạc, chính trị, kinh tế… Kết thúc là màn trình diễn ca nhạc.

 

Chúng tôi đến phim trường khoảng năm giờ chiều, một tiếng trước giờ quay.  Khoảng ba mươi phút sau, đạo diễn chương trình bước lên sân khấu để giúp mọi người làm nóng chuẩn bị cho buổi quay.  Ông đạo diễn dặn rằng nếu thấy cái bảng đèn điện có chữ "Applause", mọi người khán giả chúng tôi nhớ vỗ tay thật lớn.   Nếu cái bảng "Noise" chớp đèn, chúng tôi nhớ la hét điên cuồng.   Nếu bảng "Stand" chớp đèn, mọi người nhớ đứng lên. 

 

Vì là lần đầu tiên được tham gia chương trình ghi hình trực tiếp, tôi không hiểu tại sao đạo diễn dặn chúng tôi những điều này để làm gì.   Tôi cảm thấy buồn cười khi đạo diễn ra hiệu cho nhân viên điều khiển ba cái bảng trên lần lượt chớp để chúng tôi thực tập.   Chúng tôi ngoan ngoãn làm theo: hết vỗ tay đến la hét rồi đứng lên. 

 

Khi chương trình quay hình bắt đầu, cả ba cái bảng đều chớp lia lịa ngay lúc Dennis Miller bước ra sân khấu.  Tất cả mọi người trong trường quay đều đứng lên, vừa la hét vừa vỗ tay long trời lở đất.  Sau khoảng nửa phút, cả ba cái bảng đều ngừng chớp để báo cho mọi người im lặng và ngồi xuống.  Dennis Miller bắt đầu cuộc độc thoại của mình.  Cứ khoảng mười giây thì cái bảng “Applause” và “Noise” thay nhau chớp để nhắc chúng tôi phải vỗ tay hay la hét cho những câu nói đùa của Dennis Miller.   Lúc đầu tôi thấy cái màn cò mồi vỗ tay hay la hét này vô duyên quá.  Nếu Dennis Miller ăn nói tiếu lâm thật sự thì khán giả tự động vỗ tay chứ đâu cần mấy cái bảng kia nhắc nhở.   Tôi cảm tưởng như khán giả đang bị cưỡng ép trong việc khen người dẫn chương trình.  Nhưng sau khoảng năm phút, có nhiều lúc mấy cái bảng nhắc tuồng kia chưa kịp chớp, mọi người đã tự động vỗ tay thật to.  Những câu nói đùa của Dennis Miller thật ra chẳng phải có duyên hơn lúc sau này cho nên mọi người tự vỗ tay mà không cần nhắc tuồng.  Tôi nghĩ rằng vì được làm nóng bằng các cái bảng cò mồi kia, mọi người bỗng dưng trở nên dễ cười hơn.  Trên đường về, các bạn đi cùng cũng đồng ý với tôi về điều này. 

 

Sau khi xem cách người Mỹ làm cò mồi vỗ tay, tự nhiên tôi nhớ lại chương trình quay hình Hollywood Night của trung tâm Mây production tại Knott Berry Farms vào năm 1993.  Trong chương trình hôm đó, ngoài các MC cố gắng pha trò, có hai danh hài nổi tiếng của cộng đồng người Việt.  Mặc cho các MC cũng như hai danh hài cố gắng pha trò, khán giả Việt nam mình cứ ngồi yên như pho tượng.  Hai danh hài vừa diễn vừa cười sặc sụa trên sân khấu nhưng phía dưới khán giả mặt vẫn nghiêm và buồn.  Sau khi đã cố gắng hết sức mà khán giả vẫn lạnh lùng không cười, không vỗ tay, một danh hài chịu hết nổi nên cứ sau mỗi câu nói đùa của bạn diễn liền quay xuống khán giả kêu gào:

 

- Vỗ tay!

 

Mọi người miễn cưỡng vỗ tay theo lời kêu gọi của danh hài kia.  So sánh cách cò mồi của người Việt Nam và người Mỹ, tôi kết luận răng người Mỹ họ rất khôn khéo vì cách làm của họ không lộ liễu như danh hài Việt Nam kia.   Khán giả khi xem chương trình của Dennis Miller, nếu chưa bao giờ đến trường quay, sẽ không biết là khán giả trong buổi ghi hình bị dụ dỗ vỗ tay và la hét.   Ngược lại, khi xem video của danh hài Việt Nam trên Hollywood night, khán giả Việt Nam dễ dàng nhận ra chuyện danh hài ép buộc người xem vỗ tay.  Hơn mười năm sau, cách cò mồi của người Mỹ đã được các trung tâm băng nhạc Việt Nam đem vào các chương trình ghi hình của mình.  Với tinh thần cầu tiến, các trung tâm ca nhạc Việt Nam không những học hỏi cách làm của người Mỹ mà còn làm tốt hơn nữa (sẽ kể thêm chi tiết phía dưới).

 

Đầu thế kỷ hai mươi mốt, các chương trình tìm kiếm tài năng mới của nước Anh tràn vào, làm mưa làm gió thị trường truyền hình của Mỹ.   Đầu tiên là chương trình tuyển lựa ca sĩ American Idol.  Thật ra thì nước Mỹ trước đó cũng đã có chương trình tuyển lựa tài năng là Star search.  Sở dĩ  American Idol của Anh ăn khách hơn Star Search của Mỹ là vì chương trình của Mỹ không có mục giám khảo cho nhận xét sau khi thi sinh hoàn tất phần trình diễn của mình. Trong khi đó, ba vị giám khảo của American Idol không những cho nhận xét về phần trình diễn của thí sinh, họ có lúc thì đồng ý với nhau, khi thì bất đồng về số điểm giám khảo bên cạnh trao cho thí sinh. Chính sự tương tác của các giám khảo với thí sinh và với nhau làm cho American Idol hấp dẫn hơn Star Search. Sau thành công rực rỡ của American Idol, một chương trình khác của cùng một nhà sản xuất Anh quốc, America's Got Talent (AGT), tiếp tục lấn át thị trường giải trí truyền hình Mỹ.  Thay vì chỉ kiếm tìm giọng ca mới như American Idol, AGT là chương trình tìm kiếm tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau như múa, ảo thuật, xiếc …

 

Gia đình tôi ai cũng mê xem AGT mỗi tối thứ ba và thứ tư hàng tuần, từ tháng năm đến tháng mười.  Vì quá mê chương trình này, tôi lên mạng để tìm cách đi xem tại phim trường. Tôi quá đỗi ngạc nhiên khi biết rằng AGT phát vé miễn phí cho bất cứ ai trên mười tuổi đi xem. Vì là vé miễn phí và rất nhiều người muốn được vào xem, ban tổ chức phát vé theo hình thức ai tới trước thì được vô trước. Chương trình năm đó được quay vào lúc mười tám giờ tại nhà hát Kodak ngay trên con đường Hollywood nổi tiếng.  Theo khuyến cáo của ban tổ chức, chúng tôi đến nhà hát vào lúc mười bốn giờ để xếp hàng lấy vé. Nhìn cái hàng dài như vô tận trước phòng vé, dù tới trước giờ trình diễn bốn tiếng, chúng tôi không có hy vọng sẽ lấy được vé vào xem.  Anh nhân viên an ninh trấn an chúng tôi:

 

- Các bạn đừng lo vì nhà hát này có thể chứa đến 3400 người.

 

Chỉ vào những người xếp hàng phía trước, tôi hỏi anh nhân viên:

 

- Những người đứng đầu hàng họ đến đây từ hồi nào?

 

- Từ chín giờ sáng - Anh nhân viên trả lời.

 

Dù cái hàng phía trước chúng tôi dài như vô tận và chúng tôi không hy vọng sẽ được vào xem, số người tới sau chúng tôi ngày càng đông.  Sau khi chờ đợi khoảng hơn một tiếng đồng hồ, có hai thanh niên đi ngang qua chỗ chúng tôi đang xếp hàng và móc vé ra để mời chào xem có ai muốn mua không.  Theo như thông báo trên trang nhà của AGT thì ban tổ chức không bán vé và cấm khán giả không được lấy vé miễn phí rồi đem đi bán cho người khác để kiếm tiền.  Dù rất muốn được vào coi, chúng tôi không dám bỏ tiền ra mua vé lậu từ hai thanh niên kia vì ban tổ chức cảnh cáo rằng họ sẽ cấm cửa vĩnh viễn cả người mua và kẻ bán nếu họ bắt gặp.  Dù lén lút, hai thanh niên kia cuối cùng bị nhân viên của AGT phát hiện.  Họ tịch thu vé của hai thanh niên đó và cho họ vào sổ đen cấm vĩnh viễn.

 

Quả đúng như lời anh nhân viên an ninh, cuối cùng chúng tôi cũng vào được bên trong nhà hát Kodak để xem chương trình quay trực tiếp.  Cũng như lần đi xem chương trình của Dennis Miller vào năm 1994, đạo diễn của AGT bước ra sân khấu khoảng ba mươi phút trước giờ mở màn để hướng dẫn khán giả làm nóng cổ vũ.  Tuy nhiên, điều khác biệt lần này là AGT không dùng các bảng chữ để nhắc tuồng.  Thay vào đó, ông đạo diễn yêu cầu nửa rạp bên trái vỗ tay và la hét.  Sau đó, ông quay phải nửa rạp bên phải nói khích:

 

- Các bạn có thể vỗ tay và la hét lớn hơn được không?

 

Như một nhạc trưởng, ông đưa tay ra hiệu và thế là nửa rạp bên phải la hét và vỗ tay long trời lở đất.  Ông đạo diễn lại quay qua nửa rạp bên trái:

 

- Tôi tin các bạn có thể thắng họ!

 

Ông vừa phất tay ra hiệu, nửa rạp bên trái la hét và vỗ tay lớn hơn.  Cứ như thế, hai bên rạp ganh đua xem bên nào la hét và vỗ tay lớn hơn trong lúc các máy quay phim lia từ trái qua phải để ghi lại trạng thái phấn chấn của khán giả.  Sau khi xem lại chương trình thâu lại trên TV, tôi nhận ra rằng sở dĩ ông đạo diễn AGT khích động khán giả thi đua la hét và vỗ tay trước khi chương trình mở màn là vì họ dùng những thước phim đó để gán ghép vào các tiết mục thi của thí sinh.  Sau khi cắt ráp hình ảnh, người xem qua TV cứ tưởng sự gào thét hay vỗ tay như long trời của khán giả tại chỗ là dành cho thí sinh mà không biết rằng đó là những hình ảnh đã được quay trước khi thí sinh bước ra sân khấu.

 

Kỹ thuật cò mồi này cũng được các chương trình ca nhạc quay video của người Việt đem vào áp dụng. Hôm đó tôi tới sớm và đã an tọa để chờ coi chương trình ca nhạc có quay phim của một trung tâm lớn của người Việt Nam.  Một cụ bà được con cháu dắt đi xem.  Gia đình cụ ngồi cùng hàng ghế với tôi.  Tôi phải đứng lên để cho cụ có đủ chỗ đi vào ghế bên cạnh.  Cụ bà tuổi cao, lưng còng, đầu quấn khăn mỏ quạ, đi đứng khá vất vả.  Chân bà run run bước đi chầm chậm dù có gậy chống trong tay.  Cuối cùng thì cụ cũng vào được ghế và ngồi xuống.  Khoảng nửa tiếng trước giờ khai mạc, người MC bước ra và sử dụng kỹ thuật cò mồi của chương trình AGT khi anh kêu gọi khán giả hai bên rạp thay nhau vỗ tay và lo hét.  Có lẽ biết trước rằng khán giả Việt Nam ít bị kích động bằng khán giả Mỹ, trung tâm băng nhạc đã chuẩn bị sẵn các phong bì đỏ cho người MC dùng làm mồi.  Người MC thông báo:

 

- Ai la to nhất sẽ được nhận phong bì lì xì!

 

Mỗi lần anh MC móc trong túi ra một phong bì đỏ là mọi người reo hò một cách điên dại.  Bà cụ lớn tuổi bên cạnh do không muốn lỡ cuộc vui nên ném cả cây gậy sang một bên và đứng thẳng lên trông rất hiên ngang.  Cái bệnh còng lưng của cụ bỗng biến mất như một phép lạ.  Cụ giơ tay vẫy vẫy.   Khi thấy người MC không nhìn mình, cụ gỡ phắt cái khăn đang quấn trên đầu và dùng tay quay vòng vòng trên đầu.  Cụ dùng hết sinh lực cạn kiệt của tuổi già để la lên nhưng rồi lại bị ho sù sụ.  Người nhà thấy cụ vứt gậy đi và ho hen cho nên ra sức kêu gọi cụ ngồi xuống nhưng cụ xua tay bảo họ đừng cản mũi kỳ đà.  Sau khi người MC đã phân phát hết phong bì cho những người mà anh cho là cổ vũ tốt nhất, bà cụ buồn thiu ngồi xuống và quấn lại cái khăn mỏ quạ trên đầu.  Lưng của cụ lại còng xuống như khi mới bước vào rạp.  Chính nhờ những kỹ thuật cò mồi này mà các chương trình ca nhạc của Việt Nam sau này hấp dẫn hơn là những cuốn video ca nhạc được thực hiện vào đầu thập niên 1990.

 

Ngoài các chương trình truyền hình văn nghệ kể trên, nước Anh còn một chương trình truyền hình khác mà tôi rất thích là American Inventor (AI). Đây là chương trình tìm kiếm các nhà phát minh của nước Mỹ.  Cũng giống như chương trình American Idol và America’s Got Talent, các thí sinh đem các phát minh của mình ra trình bày cho ban giám khảo.  Nếu ban giám khảo thích phát minh của thí sinh, thí sinh sẽ được vào vòng trong.  Tại vòng chung kết, phát minh nào được khán giả bình chọn nhiều sẽ được ban tổ chức giúp phát triển thành sản phẩm để bán tra thị trường.  Khi xem mùa đầu tiên của AI năm 2005, tôi đã bị mê hoặc vì tính tôi thích tìm tòi và học hỏi.  Đến năm 2006, khi đọc được thông báo AI sẽ có buổi tuyển lựa sơ khởi tại Los Angeles Convention Center, tôi quyết định sẽ đem hai phát minh của mình đi thi.

 

Lúc đó con gái tôi mới được ba tháng. Đêm nào tôi cũng cho con bú bình. Trước khi con gái chào đời, tôi có đi học lớp huấn luyện làm bố.  Cô giáo dạy rằng khi khi con bú một phần ba bình sữa thì phụ huynh phải lấy bình ra và vỗ lưng để con ợ. Nếu cứ tham cho bú thả giàn thì con sẽ bị ọc sữa. Các bình sữa dù lớn hay nhỏ, thủy tinh hay nhựa đều có những gạch ngang và những con số đánh dấu thể tích từ đáy trở lên. Vấn đề là khi cho con bú, tôi không thể dựa vào những con số này để xem đã đến lúc cho con ợ hay chưa vì khi con bú, đầu bình chĩa xuống và đáy bình chĩa lên trời. Thêm vào đó, cô giáo dăn phải cầm bình sữa ở 45 độ cho sữa dễ chảy xuống. Rất nhiều lần tôi rút bình sữa ra khỏi miệng con, cho bình đứng thẳng lên để xem con đã uống được bao nhiêu và rồi thất vọng khi thấy con bú chưa đủ. Chính điều này thúc đẩy tôi nghĩ ra sáng kiến sau đây. Thay vì in các con số từ dưới đáy bình trở lên, các con số nên được in từ trên xuống và quan trọng nhất là in nghiêng 45 độ để các ông bố bà mẹ không phải rút bình sữa ra khỏi miệng con rồi cho bình đứng thẳẳng lên để xem đến lúc cho con ợ hay chưa.  Cái sáng kiến này chưa thể gọi là phát minh nhưng tôi nghĩ rất giúp ích cho các gia đình có em bé.

 

Cái sáng kiến thứ hai liên quan đến ly và đĩa giấy. Bên Mỹ, khi có tiệc, người ta hay dùng đĩa và ly giấy, nhựa hay mút. Những bữa tiệc dùng ly đĩa sử dụng một lần rồi vứt đi thường đông người và ít chỗ ngồi. Khách lấy đồ ăn thức uống xong thường phải vừa đứng vừa ăn. Khi ăn thì một tay cầm nĩa trong khi tay kia cầm đĩa. Vì vậy, mọi người phải bỏ ly xuống đất khi ăn. Ngoài ra, nếu món ăn nhiêu khê có nước chấm, người ta phải trộn nước chấmấm vào những món còn lại. Ví dụ khi khách lấy hai món cơm chiên và chả ốc, họ phải chan nước mắm gừng cho món chả ốc vào cả cơm chiên. Trước những vấn đề này, tôi nghĩ ra một cái đồ lấy thức ăn có thể giúp chúng ta không phải bỏ ly xuống đất khi ăn và không phải trộn nước chấmấm vào mọi món ăn.

 

Tôi hăng hái làm hàng mẫu cho hai sáng kiến của mình để đem đến dự thi chương trình American Inventor.   Theo khuyến cáo của chương trình, tôi thức dậy thật sớm và đến bãi đậu xe của LA Convention Center lúc sáu giờ sáng khi trời còn tối om vì đang là mùa đông. Cứ tưởng ra đi khi trời vừa sáng mình sẽ là những thí sinh đầu tiên được vào phòng quay nhưng tôi đã lầmlầm. Vừa bước ra khỏi bãi đậu xe tôi đã thấy cái hàng thí sinh dài như vô tận. Nhìn cái hàng này tôi nhớ đến những ngày cái hàng trước các hợp tác xã thời XHCN sau 1975 khi dân Sài Gòn phải xếp hàng cả ngày để mua nhu yếu phẩm. Cái chữ viết tắt XHCN (Xã Hội Chủ Nghĩa) được dân chúng mỉa mai sửa lại thành " Xếp Hàng Cả Ngày " để nói về nỗi khổ của dân đen trong thời kỳ bao cấp.

 

Khác với cái hàng của XHCN khi trong tay người xếp hàng là sổ lương thực và giỏ đi chợ, các thí sinh đi thi AI ai cũng mang theo những hàng mẫu cho sáng kiến hay phát minh của mình. Hầu hết mọi người đều giữ kín hàng của mình vì không muốn bị người khác ăn căp phát minh của mình. Tuy nhiên, có vài thí sinh chẳng che giấu gì cả như anh người Mê xếp hàng trước tôi. Anh tự hào mang phát minh của mình ra khoe với mọi người xung quanh. Phát minh của anh là một bộ đồ gỗ đa năng. Khi gấp lại, nhìn nó giống như bàn cờ tướng, rất gọn.   Khi mở ra, nó có thể biến thành một cái ghế hay một cái bàn. Nhờ những thí sinh đem phát minh của mình ra khoe, chúng tôi cảm thấy bớt sốt ruột trong lúc xếp hàng.

 

Vì rời nhà quá sớm và nghĩ mình sẽ được gặp ban giám khảo để trình bày sáng kiến của mình trước mười hai giờ trưa, tôi không mang theo đồ ăn. Đến hai giờ chiều ruột gan cồn cào do đói bụng. Cái hàng dài bất tận trước mặt và cơn đói lại nhắc nhớ những ngày tháng cùng cực sau năm 1975. 

 

Đang chán nản vì không biết khi nào tới phiên mình vì từ chỗ tôi đang xếp hàng, tôi không thể thấy cửa đi vào phòng thi, bỗng nhiên chúng tôi nghe tiếng la hét và vỗ tay inh ỏi từ những người xếp hàng phía trước. Tiếng la hét ngày càng gần.  Cuối cùng tôi nhìn thấy anh MC và nhân viên quay phim đang đi dọc theo hàng thí sinh để quay hình ảnh cho chương trình. Khác với các chương trình ghi hình tôi đã tham dự trước đây, anh MC chẳng cần cò môi, tất cả các thí sinh tự động la hét và vỗ tay khi máy quay phim đến gần.  Có lẽ ai cũng thích được lên TV cho nên bị kích động khi máy quay phim đến gần cho nên mỗi người đều la hét thật to.

 

Đến bốn giờ rưỡi, các nhân viên chương trình thông báo cho chúng tôi rằng bên trong sảnh đường vẫn còn vài trăm thí sinh đang chờ để vào phòng thi cho nên những thí sinh đang xếp hàng ngoài trời như chúng tôi sẽ không được cho vào hôm nay. Họ hứa rằng nếu chúng tôi trở lại ngày sau, tất cả sẽ được gặp ban giám khảo. Để tránh mất thời gian của thí sinh, họ phát cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy có giờ hẹn riêng cho ngày hôm sau.

 

Tôi thất vọng cầm tờ giấy hẹn ra về vì cảm thấy một ngày Chúa nhật quí giá của mình bị lãng phí. Tối hôm đó tôi quyết định sẽ không trở lại đi ngày hôm sau vì nhiều lý do. Thứ nhất, vì đã nghỉ làm quá nhiều ngày do có con nhỏ, tôi không còn ngày nghỉ trong hãng. Thứ hai, sau khi thấy phát minh của những thí sinh xếp hàng cả ngày hôm đó, tôi nghĩ cơ hội thắng giải của mình không cao.  Tôi chấp nhận thi rớt từ vòng xếp hàng ngoài trời.

 

Kể lại những kinh nghiệm đi xem quay hình của các chương trình để cho quí vị thấy người Mỹ họ làm việc rất khoa học và lúc nào họ cũng tìm những cái mới để làm hay hơn. Hy vọng bài viết này giúp các độc giả ở xa biết thêm về kỹ nghệ truyền hình của Hollywood.  Các độc giả đang sống tại miền Nam California nếu chưa hoặc không biết, hy vọng qua bài viết này, sẽ có thêm chỗ đi chơi.

 

Hoàng Đình Minh Long

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,198
Cả đám đang tán gẫu cười đùa rôm rả, chợt im bặt khi thấy bóng thằng Edgar đang từ xa xăm xăm đi đến. Nó dẫn một khứa lão mới toanh tới và giới thiệu: - Hey Steven, đây là ông Robert, từ hôm nay ông ấy sẽ nhập với nhóm của anh. Mọi người bắt tay và tự giới thiệu tên mình với ông Robert. Steven cũng bắt tay ông ấy, điều đầu tiên gây ấn tượng nhất là đôi mắt ông Robert sáng quắc, sáng trưng trên gương mặt đen như hắc ín, chưa bao giờ mà Steven thấy một người da đen nào có đôi mắt sáng đến như thế. Cánh mũi thì giống hệt cặp sừng con trâu rừng, đôi chân bước đi hơi khập khiễng. Ông Robert cao hơn Steven cả một cái đầu, tướng tá săn chắc và gọn gàng chứ không ồ ề ục ịch như tụi thằng Kasame, thằng Gred...Ông Robert tiếp xúc với công việc và nhanh chóng tiếp thu, chỉ một buổi là làm thành thạo như mọi người.
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
Alaska nguyên là thuộc địa miền Tây Bắc Bắc Mỹ của Nga. Qua sự đề xuất của Ngoại-trưởng William Seward, ngày 30-3-1867, Thượng Viện Hoa Kỳ đã đồng ý mua lại vùng thuộc địa này từ Đế-quốc Nga chỉ với giá 7,200,000.00 đô la. Quốc kỳ Hoa kỳ nhanh chóng được cắm lên vùng lãnh thổ mới vào ngày 18-10-1867 và qua một vài thay đổi về mặt hành chánh, trước khi đựợc tổ chức thành lãnh thổ vào ngày 11-5-1912. Alaska trở thành Tiểu bang thứ 49 của Hoa kỳ ngày 3-1-1959. Là một trong hai tiểu bang không cùng ranh giới với Hoa kỳ (Hawaii và Alaska), Alaska ở vùng cực Bắc nước Mỹ, phần lớn diện tích bị băng tuyết phủ quanh năm. Với những phong cảnh thiên nhiên đẹp và hùng vĩ, Alaska đã thu hút rất nhiều du khách từ nhiều nước trên thế giới.
“…Người xưa nói ngắn gọn mà ý nghĩa sâu xa, “có phước có phần”? Đứa bé đi chơi về, trao cho bà ngoại miếng bánh, viên kẹo nó đã để dành cho bà ngoại chứ không phải nó không muốn ăn. Một việc nhỏ trong mắt người lớn nhưng là việc lớn đối với trẻ nhỏ luôn thích ăn bánh kẹo. Nếu cha hay mẹ nó mua cho bà ngoại cả hộp bánh, cả túi kẹo bà ngoại thích ăn là chuyện bình thường thì cái bánh, viên kẹo đứa cháu thương, nghĩ đến bà nên đem về là phước phần của bà ngoại. Nếu cho bà ngoại miếng ngọc bằng cái bánh, hay thỏi vàng bằng viên kẹo thì bà ngoại vẫn chọn cái bánh, viên kẹo của cháu bà. Ông bà mình nói là bà ngoại có phước có phần. Phước là có đứa cháu ngoại thảo ăn, thương bà. Phước cũng là “không” có đứa cháu, cha mẹ đã nói là mua cho bà ngoại, nhưng ngồi trong xe nó cứ cố tháo gỡ bao bì cho đã nư…”
Hàng năm, vào khoảng đầu tháng Năm, sau khi tuần lễ biết ơn thầy cô giáo (Teachers’ Appreciation Week) kết thúc, lòng tôi lúc nào cũng nôn nao mong đợi mùa hè. Những ngày cuối của tháng Năm là những ngày để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất. Tôi tạm xa đồng nghiệp, xa học trò, xa trường lớp trong vòng ba tháng. Tôi sẽ nhớ những em học trò chào tôi bằng tiếng Việt mỗi buổi sáng dù các em không nói được tiếng Việt nhiều.
Con người của lão lạ kỳ, gọi như thế nào cho đúng đây? Chung thủy, trung thành, không thay đổi…! Đi vô tiệm ăn nếu thích món nào thì khi trở lại lão ăn hoài món đó. Vô tiệm ăn Thái lão chỉ ăn một món Red Curry. Đến tiệm Cheddar lão chỉ ăn món cá hồi nướng. Vô tiệm Muscat’s Charlie lão chỉ ăn mỗi món cá tuna nướng! Chỉ cần một lần món nào vừa miệng là lão chỉ ăn món đó, không hề thay đổi! Mụ bảo hãy thử món khác nhiều khi ngon hơn thì sao nhưng lão lắc đầu! Lão như vậy nên các tiệm ăn quen mặt, biết ý. Bao giờ cũng vậy, vừa ngồi xuống người hầu bàn sau khi viết xuống món mụ muốn, họ cười toe quay qua lão: - Tôi biết ông muốn món gì rồi! Red Curry phải không? Cá hồi nướng phải không….?
Vào năm 2001, khi tờ nhật báo Việt Báo khởi xướng Viết Về Nước Mỹ, tôi hoàn toàn tán thành với chủ trương của tòa soạn trong việc gìn giữ văn hóa Việt nơi xứ người, và tôi đã bắt đầu tập tành việc viết lách. Viết trước hết là để ủng hộ, sau tham gia ghi lại những câu chuyện, những kinh nghiệm để các con, các cháu, các thế hệ tiếp nối hiểu rõ hơn những gì thế hệ đi trước đã trải qua...
Tôi biết chị Hồng khi chúng tôi còn sinh hoạt trong cộng đồng người Việt vùng Richmond, Virginia. Chị Hồng là thủ quỹ của hội Người Việt Richmond. Mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán, Hội Người Việt đều in đặc san Xuân, chị thường nhờ tôi viết bài cũng như giúp chị liên lạc với nhà in CT Printing ở Maryland. Ngoài thủ quỹ của Hội Người Việt ra, chị Hồng còn được biết đến với vai trò ca đoàn phó trong Giáo Xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tánh tình chị dễ mến, hoạt bát, và hòa đồng. Chị luôn sốt sắng phụng sự trong giáo xứ cũng như cộng đồng, nên được rất nhiều người quý mến. Công việc thường ngày của chị là thư ký cho văn phòng bác sĩ. Tính tới thời điểm bây giờ thì chúng tôi biết nhau cũng hơn hai mươi năm.
... Nơi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ là Sacramento, California, nhà của ông anh, với nhiều ngỡ ngàng mới lạ. Thuở đó Sacramento đất rộng người thưa. Nhiều hôm tôi ra trước nhà, nhìn tới nhìn lui không thấy bóng người qua lại; tôi ngồi bệt xuống đường đi bộ cho đỡ mỏi chân. Nhiều người nhìn tôi nói, sao mà giống y như "homeless", nếu tôi có thêm một vài bao bị kề bên. Nhiều đêm, giật mình tỉnh giấc tôi ngỡ mình đang ở Việt Nam. Một thời gian ngắn, chúng tôi xuôi Nam xuống Los Angeles... rồi đến Florida. Vì cuộc mưu sinh, tôi đi nhiều nơi, viếng nhiều chỗ nhưng chưa có dịp trở lại nơi đầu tiên đến Mỹ với nhiều kỷ niệm...
Tôi có thói quen thích đi chợ trời. Mỗi cuối tuần ấn định hai ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, chưa kể ngày lễ, tôi rất háo hức mong trời mau sáng để đi chợ trời. Một người bạn ở Mỹ lâu năm chê: - Tao không biết chợ trời có gì hấp dẫn mà lôi cuốn mày đến đó u mê như một tên nghiện? - Ậy, điều sung sướng mày sao biết được, “Flea market-Chợ trời” mua được nhiều đồ vật lạ, các đồ cổ mày không thể nào mày thấy trong cửa hàng. Không đi mày làm sao cảm hứng thú vị được như tao....
Nhạc sĩ Cung Tiến