Hôm nay,  

Một Cuộc Tình Đẹp

09/01/202411:08:00(Xem: 3440)
08012024 Vĩnh Chánh_Một cuộc tình đẹp hình 2.png
Đôi Uyên Ương Nghê Xuân Nghiệp và Nguyễn Thị Anh Ngọc.
Hình tác giả cung cấp.


Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Năm 2019, Tác giả nhận thêm giải quán quân Chung Kết Vinh Danh Tác Giả Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ hay còn gọi là giải Hoa Hậu. Tốt nghiệp Y Khoa Huế, thời chiến tranh Bác sĩ Vĩnh Chánh đã là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù.

*


Từ lâu, tôi muốn viết câu chuyện đời của một cặp bạn thân tình, nhưng mãi chưa có cơ hội. Nay nhân dịp kỷ niệm 50 năm đám cưới của anh chị, tôi không thể chần chờ viết lên đôi dòng, xem như một món quà gởi đến đôi bạn mừng ngày Lễ Vàng vào đầu tháng 12, 2023.

Anh Nghê Minh Hiệp sinh và lớn lên tại Saigon, trong một gia đình có thân phụ là một sĩ quan từng phục vụ các Sư Đoàn 7, 9, 21 Bộ Binh, với chức vụ sau cùng là Thiếu Tá thuộc SĐ 21 BB, và 3 người anh em cũng là quân nhân, với người anh cả phục vụ trong Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, người anh kế là một phi công trực thăng, và người em rể cũng là một phi công trực thăng vỏ trang – cả 2 người này đều tốt nghiệp phi hành từ Hoa Kỳ. Do sống gần thân phụ, Hiệp chuyển trường nhiều lần, học qua các trường trung học Vĩnh Bình và trung học Tống Phước Hiệp, ở Vĩnh Long. Sau khi đậu Tú Tài vào năm 1968, Hiệp tình nguyện đầu quân vào Không Quân VNCH khi anh vừa tròn tuổi 19. Vào năm 1969, Hiệp được gởi sang Hoa Kỳ học bay.  Tháng 11, năm 1971, sau khi hoàn tất chương trình học lái máy bay phản lực trong một năm rưỡi, Hiệp trở về Việt Nam, và được đưa ra Đà Nẵng phục vu Phi Đoàn 516, lái khu trục phản lực A 37. Cuối năm 1972, Hiệp được điều vào Biên Hòa học lái chiến đấu cơ phản lực F5. Xong khóa học vào tháng 3, 1973 Hiệp nhận sứ vụ lệnh trở về lại Đà Nẵng, phục vụ Phi Đoàn 538 Hồng Tiển, một phi đoàn F5 vừa mới thành lập của Sư Đoàn 1 Không Quân.

Chị Nguyễn Thị Anh Ngọc sinh và lớn lên từ Đất Thần Kinh trong một gia đình có thân phụ trong quân đội, với chức vụ cuối cùng là Trung Tá, chánh văn phòng cho Trung Tướng Vĩnh Lộc tại Quân Đoàn II, Pleiku, trước khi hồi hưu mấy năm sau. Vì thân phụ là quân nhân di chuyển thường xuyên, nên Anh Ngọc cũng phải chuyển trường nhiều lần từ tiểu học cho đến trung học, như là trường Đồng Khánh, Huế , trường trung học Pleiku, rồi về lại trường Thiên Hữu, Huế. Tôi từng biết Ngọc thời chị còn học ở trường Đồng Khánh; có nước da “mặn mà có duyên”, tóc ngắn, thường mặc áo đầm, nào là jupe serrée, jupe plissée, jupe taille haute, jupe trapeze… thay vì áo dài tha thướt của nữ sinh Huế. Tuy là con gái gốc Huế, nhưng Ngọc mang một phong cách tân thời, à la mode, với một chút tinh nghịch, một chút ngổ ngáo, linh hoạt, không tỏ vẻ e lệ, rụt rè – nói chung: không mấy Huế- ngoại trừ giọng nói, điều này minh chứng Ngọc từng sống nhiều nơi khi theo thân phụ.  

Một phi công gốc Nam Kỳ, một thiếu nữ gốc Cố Đô, vậy thìduyên tơ hồng nào giúp họ gặp nhau. Không phải qua giới thiệu của bạn bè hay gia đình, không phải trong một buổi liên hoan hay tiệc tiếp tân, mà cũng chẳng phải làm quen với nhau trong một quán cà phê hay tình cờ nhìn thấy nhau trong một buổi chiều núp mưa trên đường phố. Cuộc tình duyên của anh Hiệp và chị Anh Ngọc được anh chị mô tả như một cuộc tình “Wrong Number”. Nghe qua thấy quá lạ, nhưng đây đúng là một chuyện tình diệu kỳ với sự bắt đầu có tính cách thần tiên. Năm 1973, ở tuổi 21, Ngọc là nữ thư ký cho một trại quân vận ở Đà Nẵng mà vị chỉ huy trưởng là cậu của mình. Ngoài giờ làm việc, nhất là vào khoảng giờ ăn trưa, Ngọc thường táy máy bốc điện thoại quân đội, vui đùa bấm các con số, để rồi gác máy xuống khi nghe tiếng trả lời ở đầu dây bên kia. 

Vào một buổi trưa đẹp trời tháng 5, 1973, Nàng bấm một dãy số lạ và ngay lập tức nghe tiếng trả lời nhanh gọn, với giọng Miền Nam rất hấp dẫn “Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp, tôi nghe đây”. Vào lúc ấy, cậu của Nàng bước vào phòng trực điện thoại, lập tức Nàng gác máy. Khoảng 20 phút sau, điện thoại trước mặt Nàng reo lên, giọng nói đầu dây kia vang nhanh “tôi là Thiếu Úy Nghê Minh Hiệp gọi lại đây. Có phải cô là người vừa kêu tôi rồi tắt máy…” Thế là bắt đầu một trò chơi, hầu như mỗi ngày hai bên đều kêu điện thoại nói chuyện với nhau. Sau một tháng trên điện thoại, trước lạ sau quen, họ bằng lòng gặp nhau. Nàng chiếm trọn tim Chàng ngay phút ban đầu “lưu luyến ấy”.

Trong cuộc tình này, Chàng thật sự choáng ngợp trước vẻ đẹp duyên dáng, nhí nhảnh, tươi trẻ của Nàng, dù Chàng phải làm quen dần với một giọng Huế ngọt ngào, thật đáng yêu nhưng khó hiểu. Trong bất cứ cuộc tình nào cũng phải có một người yêu người đối diện trước. Hiệp luôn công nhận, không những Hiệp tha thiết yêu Ngọc mà anh thật sự si mê người đẹp của mình. Từ giọng nói, dáng điệu, phong cách. Từ cách ăn mặc, cách ứng đáp tự nhiên, cách trả lời ngay thẳng, không giả bộ quanh co, ngây thơ vô tội vạ. Tuy nhiên, vốn là một phi công thường xuyên bay vào vùng trời chi chít đạn thù chớp nổ trong tiếng gầm thét của động cơ phản lực, dù Hiệp có thể xem nhẹ cái chết của chính mình, Hiệp vẫn phải đắn đo dậm chân tại chỗ khi nghĩ đến thân phận dấn thân vào chốn nguy hiểm của mình. Còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong vòm trời đầy lửa đạn, nơi mà sự sống chết đang chờ đợi trong từng mỗi phi vụ, nơi mà thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Và khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người phi công, nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc.

Gần nửa năm sau, Hiệp vụng về tỏ lời xin cầu hôn với Nàng. Không trả lời Chàng liền, Nàng về Huế hỏi ý kiến của thân mẫu. Nàng kể hết tất cả những gì mình biết về Chàng, về con người, tính tình của Chàng, về công việc về cách giao thiệp của Chàng, về gia đình của Chàng…Thân mẫu của Nàng lắng nghe, để chỉ hỏi một câu cuối cùng “nếu con không lấy được Hiệp thì con có muốn lấy ai khác không?” Nàng trả lời “Nếu không lấy được anh Hiệp thì con sẽ không lấy ai hết”. Trong thâm tâm của Nàng, chính Nàng đã ước nguyện chia sẻ nổi đau buồn của Chàng sau khi biết gia đình Chàng gặp phải nhiều biến cố mất mát đau thương liên tục; Nàng muốn choàng ôm Chàng, cho Chàng sức sống, hy vọng và niềm tin qua nguyện cầu sẽ có nhau mãi mãi trong cuộc đời. Như muốn dang đôi cánh thiên thần bảo vệ, chặt đứt vòng tử thần lởn vởn trên đầu người yêu. Nàng bất chấp nghĩ rằng mình có thể trở thành một quả phụ, như trường hợp một vài bạn thuở trung học của mình lấy chồng quân nhân. Không những đây là một mối tình tuyệt đẹp, mà còn là một mối tình sắt son. Hỏi ai trong chúng ta mà không biết đến bài thơ “Ôi, Saigon Giờ Giới Nghiêm” của nhà thơ Tô Thùy Yên, được nhạc sĩ Trần Thanh phổ nhạc “Chiều Trên Phá Tam Giang.”



Giờ nàу thành phố chợt bùng lên
em giòng lệ bất giác chảу tuôn
nghĩ tới một điều em không rõ
nghĩ tới một điều em sợ không dám nghĩ
đến một người đi giữa chiến tranh
lại nghĩ tới anh… nghĩ tới anh…

https://youtu.be/XYEkuqfYDf4?si=uFNSBCOOQ6mE40cE

Trong một tâm trạng vừa hân hoan vừa xót xa cho hoàn cảnh có tang của gia đình, Chàng và Nàng chính thức trở thành vợ chồng vào đầu tháng 12, 1973, bằng một buổi cơm trong gia đình tại Đà Nẵng. Cô dâu không có áo cưới, vợ chồng không có tuần trăng mật. Khi về thăm quê chồng, Nàng được bà gia giới thiệu với bà con hàng xóm “nó không phải là người Dziệt, mà là người Wuế”. Khi Nàng mặc đồ ngắn đi chơi bên ngoài, bà gia cũng lấy làm lo lắng, sợ con dâu bị lạnh mà trúng gió!

  
Có lần ngồi cạnh nhau, nghe Hiệp tâm sự về gia đình mình, nhất là về cái chết của những người thân trong gia đình mình, tôi thật bàng hoàng, xúc động và xót xa, liên tưởng ngay đến chuyện phim nổi tiếng “Saving Private Ryan”. Người anh cả của Hiệp là người đầu tiên trong gia đình tử trận năm 1969, tại quận Bình Chánh, khi đang là một đại đội trưởng của Tiểu Đoàn 35 Biệt Động Quân, ngay trong thời gian Hiệp đang chờ du học phi hành tại Hoa Kỳ. Chỉ vài tháng sau khi từ Biên Hòa Hiệp về lại Đà Nẵng bay chiến đấu cơ phản lực F5, và cùng trong thời gian Hiệp bắt đầu làm quen với Ngọc, người anh thứ nhì của Hiệp, một phi công trực thăng thuộc Phi Đoàn 229 Lạc Long, bị chết cháy ngay tại ghế ngồi khi trực thăng do anh lái bị trúng đạn và rơi xuống vùng rừng núi tại Pleiku, vào tháng 6, 1973. Và không đầy 4 tháng sau, vào tháng 10, 1973, người em rể, vốn là một phi công trực thăng vỏ trang, thuộc phi đoàn 213 tại Đà Nẵng, tình nguyện bay chiếc trực thăng bị trục trặc động cơ về Đà nẵng, nhưng anh buộc phải hạ cánh chiếc trực thăng tại một vùng bất an ninh ở Quảng Ngãi, nên sau đó bị du kích VC địa phương sát hại bằng một nhát dao đâm vào cổ, trong khi đã bị thương và kẹt trong phi cơ.

Để trả lời câu hỏi của tôi vì sao gia đình Hiệp không xin cấp trên cho con trai duy nhất còn lại của mình được làm việc dưới đất thay vì tiếp tục bay để tránh nguy hiểm, Hiệp trả lời một cách can cường “đã là một Cánh Thép thì mãi mãi là một Cánh Thép cho Tổ Quốc - Không Gian”. Tuy nhiên, với lời thỉnh cầu của cha mẹ Hiệp, Bộ Tư Lệnh Không Quân cho vợ chồng Hiệp thuyên chuyển từ Đà Nẵng về Biên Hòa vào tháng 3, 1974, cho gần gia đình Hiệp, nhưng Hiệp vẫn tiếp tục bay chiến đấu cơ F5 trong phi đoàn  522 Thần Ưng của Sư Đoàn 3 Không Quân. Tại căn cứ Biên Hòa, gia đình bé nhỏ của Hiệp Ngọc gánh một nỗi đau nghiệt ngã. Con gái đầu lòng của vợ chồng, vì sinh thiếu tháng, được cho nằm trong lồng ấp điều hòa, có dưỡng khí. Vào một đêm căn cứ không quân Biên Hòa bị địch pháo kích, hệ thống điện được lệnh tắt. Lồng ấp sơ sinh không có điện, lại thêm người y tá trực không có mặt nên bé không có dưỡng khí để thở, bị ngột và chết. Với cái chết của bé sơ sinh này, đại gia đình của vợ chồng Hiệp Ngọc mất tất cả 4 sinh mạng. Vì chiến tranh.

Cận ngày 30 tháng 4, 1975, vợ chồng Hiệp Ngọc được di tản khỏi Việt Nam. Họ sớm có công việc tạm ổn định trong thời gian đầu tiên tại Quận Cam. Nhưng có lẻ điều may mắn nhất - theo tôi nghĩ - là Hiệp Ngọc chọn Quận Cam làm nơi định cư vĩnh viễn, từ thủa lập nghiệp cho đến lúc về hưu. Và hiện tại. Qua sự nhận xét của tôi, Hiệp Ngọc không có nhiều tham vọng, họ chỉ chú trọng nuôi con khôn lớn, có một đời sống đơn giản, không đua đòi, vẫn ở tại một căn nhà mua từ giữa thập niên 80. Hiệp về hưu sau 36 năm làm việc cho hãng Mobil, đi từ nhân viên cấp nhỏ trong phân sở bảo trì cho đến chức vụ cuối là Supervisor về Planning; Ngọc thì làm kế toán cho một hãng tư.

08012024 Vĩnh Chánh_Một cuộc tình đẹp hình 3.png

Hiện tại Hiệp Ngọc có 3 cô con gái và 5 cháu ngoại. Sống hạnh phúc và sức khỏe. Đây là một cặp vợ chồng rất thuận hòa, đi đâu hay làm chuyện gì cũng tâm đầu ý hợp, luôn có nhau bên cạnh, du lịch nhiều nhất trong những bạn “giang hồ” mà tôi từng biết, có thể cả 1/3 thời gian trong năm. Họ đi cruises nhiều chuyến, đi du lịch thế giới, du lịch khắp nước Mỹ, thăm gia đình định cư tại Úc, về VN hằng mỗi năm, thăm gia đình ở Saigon, Cà Mau (là gốc của đại gia đình phía Hiệp), thăm gia đình ở Huế…  

Tính tình Hiệp Ngọc rất hòa nhã, thoải mái, cởi mở và hào phóng; vợ chồng luôn hành xử đẹp, tử tế và tận tình với bạn bè, và vô cùng hiếu khách, luôn tạo cơ hội để mời mọc họp mặt vui chơi với nhau, nên căn nhà của Hiệp Ngọc là nơi thường xuyên tụ tập của các bạn Không Quân của Chàng, bạn thời trung học của Nàng, nhất là trong các cuối tuần, các dịp Tất Niên, Tân Niên, mừng sinh nhật, July 4th, Veteran Day…Khi mùa Đông đến, Hiệp Ngọc thường hay mời vài ba cặp bạn lên Big Bear ở nhà mình chơi tuyết. Nhìn Chàng và Nàng lã lước khiêu vũ trên sàn nhảy, chúng tôi rất ngưỡng mộ. Đối với Chàng và Nàng, có lẽ đêm nào cũng là đêm xuân, và “Đêm xuân nào cũng là Đêm thứ Nhất” (thơ Đêm Thứ Nhất của thi sĩ Trần Dạ Từ.)

 
50 năm, một nửa của thế kỷ, là một khoảng thời gian quá dài để nhớ hết tất cả những gì đáng nhớ, nhất là khi đã trải qua những năm liền với quá nhiều biến cố trong chinh chiến, với sự mất mát của bao người thân trong gia đình, cơn đại nạn của đất nước và khi xây dựng lại cuộc đời trên xứ người. Nhưng 50 năm đã qua như một cơn gió thoảng. Có chăng để lại t rong đời người nhiều kỷ niệm, nhưng có những kỷ niệm thật đáng nhớ mà ta gọi là hoài niệm không hề phai trong tâm cảm. Cũng vậy, trên đường đời, chúng ta gặp nhiều cảnh ngộ tốt xấu, nhiều bạn hiền trong các hội ngộ. Tuy nhiên có những hội ngộ đặc biệt để lại xúc cảm trân quý thì ta gọi là đó hạnh ngộ. Tôi ước mong Hiệp Ngọc sẽ mãi gìn giữ những hoài niệm chung, được xây đắp qua những cảnh ngộ, hạnh ngộ khó phai.

08012024 Vĩnh Chánh_Một cuộc tình đẹp hình 4.png

Từ những giấc mơ nhỏ nhoi, chúng ta đan thành những thực tế to lớn dần, thành công có, thất bại có. Để bây giờ khi mùa Thu tựa cửa cuộc đời, còn đâu nữa là những vấn vương lẩm cẩm. Qua rồi là công danh sự nghiệp. Qua rồi là trách nhiệm với đời. Giờ đây chỉ lấy niềm vui gia đình con cháu làm lẽ sống, lấy tình bạn làm vui qua ngày và tìm đường mây rộng thênh thang để rong chơi. Nếu như vậy, Chàng nên ca bài “Anh Còn Nợ Em” hằng ngày và mỗi ngày. Và đừng quên đấm bóp, nắn chân, vuốt tóc cho Nàng mỗi đêm.

Xin được chúc mừng Lễ “Hấp Hôn” lần thứ 50 của vợ chồng Hiệp Ngọc với bài thơ sau đây:

“Vạn lý đường đời ta chung bước

Trường thành xây đắp tình thiên thu

Cùng nhau sánh vai cùng chung hướng

Khổ đau vui sướng mãi bên nhau”

 

Ngày 29 tháng 11, 2023

Vĩnh Chánh.

Ý kiến bạn đọc
09/01/202423:43:52
Khách
Cám ơn người viết bài chia sẻ một chuyện tình đậm và đẹp. Mong anh chị Hiệp-Ngọc mãi hạnh phúc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 411,250
Hồi mới qua Mỹ, tôi phải vừa đi làm vừa đi học để tự trang trải cuộc sống. Tôi được một công ty sửa chữa hàng điện tử, mướn vào làm ca đêm, vì ca ngày đã đầy. Ban đêm đi làm, ban ngày đi học cũng khá phù hợp với lịch trình của tôi lúc ấy. Tôi thuê một phòng trọ nhỏ, chỉ về nhà ngủ vài tiếng mỗi ngày trước khi tiếp tục công việc. Tôi làm việc không kể nặng nhọc hay khó khăn vì so với việc làm hồi còn ở Việt Nam thì sá gì với mấy công việc nhẹ nhàng này. Tôi vào hãng với tinh thần thoải mái vì tôi được làm việc trong một môi trường vui vẻ và tôi yêu thích công việc này. Ngược lại, việc học ở trường thì tôi vật lộn với nó như bò kéo xe lên dốc.
Người xưa có câu "70 chưa gọi là lành", ý nói họa phước của mỗi người tới 70 tuổi vẫn chưa biết được, phải tới khi hết thở thì mới có thể nói rằng cuộc sống của một người tốt xấu, lành dữ, ra sao. Câu chuyện dưới đây là một chuyện có thật về một chuyến du lịch bị trở ngại vào phút chót và những người trong cuộc đã trải qua những thử thách rất khó khăn, giống như họ phải chèo chống một con thuyền mong manh vượt qua cơn sóng dữ...
Hòa thức dậy lúc 5 giờ sáng sau giấc ngủ ngắn từ giữa khuya, căn phòng bệnh viện màu trắng ngà dưới ánh đèn vàng vọt buồn thiu, bên ngoài kia trời còn phảng phất lạnh lẽo của đầu mùa đông, dù mùa đông Seattle không nhiều tuyết tái tê như những nơi miền Đông Bắc nước Mỹ. Hòa vẫn thường ngủ ít và dậy sớm, có lẽ bệnh nhân nào cũng thế, nằm trong bệnh viện khắc khoải lo âu bệnh hoạn, lại thêm y tá nhân viên thường xuyên ra vào cả ngày lẫn đêm ai mà ngủ ngon cho được. Hòa rời khỏi giường, đi ra phía cửa, rồi đi dạo khu hành lang cho đầu óc khỏi suy nghĩ rồi lại buồn lại khóc. Các phòng bệnh đều đóng kín, mỗi bệnh nhân là một thế giới riêng, đau buồn riêng. Cuối hành lang xa xa thỉnh thoảng có bóng dáng vài cô y tá tất bật qua lại, ghé vào phòng nào đó thăm bệnh, lấy máu, đo huyết áp, đưa thuốc... nói chung là đủ thứ của công việc y tá.
Ông ngồi nhâm nhi tách trà, ánh mắt mông lung thả vào khoảng không. Từ tách trà nóng, một làn khói mỏng tỏa lên. Hương sen lãng đãng trong khu vườn buổi sáng, quyện cùng mùi cỏ cây, mùi sương ẩm. Buổi sáng bao giờ cũng là thời khắc êm đềm đối với ông. Không có gì phải vội vàng, ông cứ ngồi như thế, cho đến khi mặt trời lên cao và bình trà cạn nguội ngắc ngơ. Nhưng hôm nay thì khác. Bãi sân trống cạnh nhà là nơi tụ tập đá bóng của bọn trẻ từ sớm. Kỳ nghỉ hè vừa mới bắt đầu, bao nhiêu sự phấn khích cùng với năng lượng tràn đầy dồn vào những cú sút bóng ầm ầm, vào tiếng la hét vang dậy. Rồi cái gì đến cũng đã đến. Một cú sút thẳng chân, hất quả bóng bay qua hàng rào, rơi ngay bàn trà của ông...
... Có nhiều người nói nhổ răng hàm trên, nhất là mấy cái răng cấm thì dễ bị chạm dây thần kinh và về sau sẽ bị “mát dây”, và cũng có vài đứa bà con tôi biết sau khi nhổ răng cấm thì tâm thần rất là bất ổn, nếu không nói là bị bệnh thần kinh. Nhà tôi và mấy đứa con thì nói răng không đau đâu cần nhổ làm gì cho... thêm chuyện; thằng con còn “hù” tôi, kể lại khi nó đi nhổ răng khôn, người ta dùng kềm móc cái răng rồi “đu” người lên mà kéo; ông bố thì “dọa”, coi chừng nhổ răng xong bà không còn nhớ tôi là ai; rồi vài chị bạn tôi kể nhổ răng khôn về sưng đau hành rất lâu, rất mệt v.v... làm tôi hãi quá. Tôi lên “net” tìm hiểu về “lợi và hại của việc nhổ răng khôn” thì có quá nhiều thông tin xuôi chiều và ngược chiều, nên tôi quyết định không nhổ. Cho nó lành...
Trong cuộc đời của mỗi người, bất kỳ ở nơi nào trên thế giới, từ khi có trí khôn, là ta đã mang nợ và phải biết ơn nhiều người- từ Tổ Tiên Ông Bà, người làm ra hạt gạo nuôi ta, Đấng Sinh Thành, đến những Thầy Cô dẫn dắt ta, các cô chú Thương Phế Binh đã bảo vệ chúng ta bằng chính cuộc đời họ, đến bạn bè, người quản lý và giám đốc nơi ta làm việc, đồng nghiệp... người quen người lạ… tất cả mọi người chung quanh, ta đều mang ơn họ, không nhiều thì ít. Và riêng đối với những người được định cư ở quê hương thứ hai, ta còn phải mắc nợ thêm bao nhiêu là người nữa- từ chính phủ, những vị tổng thống, từ những vị giúp những chương trình tái định cư HO, ODP… đến những vị ân nhân bảo lãnh...v.v... trái tim nhân ái của họ bao la vô cùng... Kể ra tất cả những người làm ơn cho ta sẽ không hết - ở đây tôi chỉ xin đơn cử một vài việc rất gần đối với gia đình tôi, với đất nước “Cờ Hoa” đầy tình người này.
Cách đây rất nhiều năm. hồi chị còn đi học đại học ở Mỹ, trong một lớp của chương trình sư phạm, một vị giáo sư hỏi cả lớp trước khi cả lớp chuẩn bị nghỉ lễ Tạ Ơn: - Các bạn sẽ nói lời cảm ơn với ai trong dịp lễ Tạ Ơn năm nay? Các bạn đồng môn của chị nhao nhao, nói sẽ cảm ơn gia đình, thầy cô, bạn bè. Vị giáo sư quay sang hỏi chị có ai để cảm ơn không, dĩ nhiên chị có rất nhiều người để nói lời cảm ơn. Chị nói với vị giáo sư rằng chị rất biết ơn ba má và bạn bè của chị, người đã giúp đỡ chị quay lại trường đại học ở Mỹ. Chị biết ơn nước Mỹ đã cưu mang gia đình chị và giúp đỡ chị về tài chánh để chị được đi học. Chị biết ơn các giáo sư ở Mỹ đã khuyến khích, tận tâm giải thích cho chị những lúc chị không hiểu bài. Chị cảm ơn con trai chị đã giúp chị có động lực để quay lại trường học vì chị muốn làm tấm gương cho thằng Huy-là-con trai của chị. Chị muốn thằng Huy sau này khi lớn lên sẽ đi đại học như rất nhiều di dân gốc Việt khác...
Tôi thức dậy từ 6 giờ sáng lo những việc cá nhân lẹ làng, sau đó thay bộ áo dài cờ vàng lái xe lên San Jose, đến điểm tập họp trước “parking” của Walmart nằm trên đường Story. Vì câu nói của em trai Minh Huy trưởng đoàn Hậu Duệ Việt Nam Cộng Hòa, khi Hoa Nguyễn mời, tôi đã ngại ngùng nói ”Chị già rồi không phù hợp với tuổi trẻ, đường xá xa xôi, vấn đề lái xe trở ngại, chỉ có thể đi tham dự hạn chế”. Minh Huy thưa ”Chị ơi! chúng em rất cần ba thế hệ một tấm lòng ...”. câu nói lễ phép với cả chân tình của tuổi trẻ đầy tha thiết đã động vào trái tim mình, nên tôi quên mất tuổi già không đủ sức khỏe tốt, vượt đường xa mưa gió góp mặt cùng nhóm hậu duệ đi diễn hành Lễ Cựu Chiến Binh Hoa Kỳ.
Một ngày trong tháng 9, 2024, Kim Oanh điện thoại cho vợ chồng chúng tôi, ngỏ ý muốn qua thăm “anh chị”. Chúng tôi cho biết, nếu cần đưa đón, chúng tôi sẵn sàng. Nhưng Kim Oanh trả lời sẽ nhờ người quen đưa đến. Chúng tôi hẹn gặp nhau vào cuối tháng 10, 2024 tại nhà chúng tôi. Kim Oanh là vợ của Trung Úy Không Quân Hoàng Văn Tân, một người bạn tù cải tạo rất thân thiết của tôi trong 2 năm tại Long Khánh. Kim Oanh có lần dẫn vợ tôi cùng nhau thăm lén hai ông chồng trong rừng cao su bên ngoài trại tù ở Long Khánh. Đây là một kỷ niệm không bao giờ quên, vì cả hai cặp có được chút thì giờ “tâm sự” riêng với nhau giữa cảnh màn trời chiếu đất. Anh Hoàng Văn Tân mất vào đầu năm 2016 tại San Diego.
Dân ta ở các tiểu bang miền Tây như Cali, Texas… gọi họ là dân “Mễ” vì họ vào nước Mỹ từ xứ Mexico; các tiểu bang miền Đông như Maryland, Virginia… gọi là dân “Xì”, vì nghe họ nói tiếng Spanish - tiếng gọi khác nhau, nhưng “Mễ” hay “Xì” cũng là di dân từ các nước Trung hay Nam Mỹ. Người Mỹ gọi họ là dân Hispanic hay Latino. “Chuyện dài di dân gốc Mễ”: từ nhà ra phố đến chuyện quốc gia đại sự đều có mặt dân “Xì”; vui buồn, thương cảm hay giận đến căm gan đều có bóng dáng anh “Mễ”...
Nhạc sĩ Cung Tiến