Hôm nay,  

Valentine Cho Người Chưa Gặp Mặt

14/02/202317:56:00(Xem: 2943)

 

Tác giả tên thật là Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966, là cô giáo tiểu học khi còn ở Việt Nam. Vượt biên và sống ở trại tỵ nạn Thailand từ 1989-1993. Định cư tại Canada từ 1994 đến nay. Tác giả nhận giải đặc biệt VVNM 2021.

*

Trong nhiều lần bay qua Mỹ thăm gia đình, chúng tôi thỉnh thoảng có những chuyến layover tại một trong những phi trường lớn nhất nước Mỹ, đó là Denver International Airport. Tuy chưa bao giờ đi vào trong thành phố, mà chỉ nhìn qua cửa kiếng sân bay, qua những chuyến xe bus, xe lửa đổi terminal, tôi vẫn phóng tầm mắt nhìn xa hơn, cộng với trí tưởng tượng bay bổng của mình, để tìm một bóng dáng thân quen, để thấy một Denver mến thương… từ thuở nào! 

Khi tôi vượt biên cuối năm 1989 đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand, liền viết thư cho ông anh bên Mỹ về tình hình trại tỵ nạn đã bị Cao Uỷ đóng cửa từ ngày 14/3/1989, những ai đến trại sau ngày này sẽ phải chịu thanh lọc rất khắt khe. Nghe tin đó, anh vội vàng nghĩ suy mọi cách để cứu tôi, chứ dứt khoát không cho tôi quay trở về Việt Nam.

Rồi một hôm tôi nhận được hơn hai mươi lá thư từ Mỹ, chỉ có một cái thư của anh tôi, còn lại là những cái tên Mỹ lạ hoắc.

Ôm một đống thư về chỗ ở trại tỵ nạn, tôi đọc thư anh tôi trước. Anh giải thích rằng đã tự ý giúp tôi bằng cách đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ với ước mong tôi sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ…tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc đáng ghét. Anh cũng nói, tôi đừng sợ hãi, cứ chọn lọc trong các lá thư, tìm ra người nào có vẻ tin cậy thì hồi âm, dù sao cũng là cách giết thời gian và học thêm English, làm bạn bè cũng tốt.

Giờ thì xin mở ngoặc nói về ông anh Th. yêu quý của tôi. Trước đây ở Việt Nam anh làm thầy giáo, rồi sau năm lần bảy bận đi vượt biên vào tù tội mới trót lọt, với câu nói cương quyết: “Nếu bỏ xác ngoài biển thì đành chịu, chớ còn đôi chân là còn đi vượt biên, đi hoài cũng tới, trời không phụ lòng người”.  Không biết anh có uy tín cỡ nào, mà kể từ khi anh bắt đầu toan tính ra đi, vài bạn thân trong xóm với gia đình tôi cứ hay đến nhà tôi thầm thì có chỗ nào vượt biên thì kêu tui nhe, đi chung với anh Th. cơ. Người có quyết tâm và niềm tin như anh thì chắc sẽ gặp may. 

Trước năm 1975, anh đã từng học Anh Văn ở Hội Việt Mỹ nên rất khát khao đến được xứ tự do dân chủ này. Khi qua đến Mỹ như mong ước thì anh càng yêu Mỹ nhiều hơn. Anh còn khuyến khích tôi, đừng e ngại nếu kết hôn với người Mỹ vì có rất nhiều điểm lợi, nào là học được English hàng ngày hàng giờ, nào là sinh ra con sẽ cao lớn, xinh đẹp, nào là sẽ mang last name của chồng là last name Mỹ, khi đi học đi làm rất khó bị phân biệt chủng tộc…vân vân...và vân vân.

Nghe anh nói vậy tôi cũng yên tâm và hứng thú phần nào, dù lúc đó tôi vẫn có suy nghĩ phải quen và lấy chồng người Việt, chứ không hình dung được cái cảm giác sống chung với một người Mỹ mắt xanh, tóc vàng, tay chân đầy… lông lá.

Tình hình trại tỵ nạn lúc ấy quá căng thẳng, không còn chọn lựa nào khác, nên theo lời khuyên của ông anh, tôi mở các lá thư Mỹ ra đọc. Đầu tiên, tôi loại bỏ những thư không có hình kèm theo, tiếp theo là loại những người…viết chữ xấu, cẩu thả, (thói quen nghề nghiệp cô giáo khi còn ở Việt Nam), rồi loại tiếp những lá thư có hình nhưng nhìn… hổng đẹp trai và loại luôn những người viết thư …vô duyên (dù trình độ Tiếng Anh của tôi lúc ấy chả có là bao!).

Cuối cùng tôi chọn được một lá thư với nét chữ đều đặn, mềm mại, giọng văn chân tình nghiêm túc, nghề nghiệp vững vàng (giáo viên dạy English ở một trường Trung Học ở Denver, Colorado, vậy là đồng nghiệp với tôi), và tấm hình một chàng trai Mỹ trắng có nét hiền hoà, dễ mến, tên họ đầy đủ là Don Garner. 

Với tất cả vốn liếng English có được, tôi viết thư cho Don, giới thiệu bản thân, cám ơn Don đã vui lòng kết bạn, giúp tôi trau dồi thêm Anh Ngữ trong thời gian chờ đợi ở trại tỵ nạn và tôi cũng gởi một tấm hình tôi mặc chiếc áo màu đỏ thắm, chụp trước căn “nhà” của tôi trong trại tỵ nạn. Don hồi âm và nói thích tấm hình, thích... màu áo của tôi, khen tôi nụ cười tươi như hoa. Don phóng to tấm hình này với size bằng cuốn vở rồi gửi lại trại cho tôi làm kỷ niệm.

Cứ hai tuần một lần, Don gửi một lá thư, kèm thêm tái bút những đoạn dạy tôi grammar mà thư trước tôi đã viết sai và luôn luôn có những tấm hình phong cảnh Colorado, vì nhiếp ảnh là niềm say mê của Don sau giờ đi dạy.

Chắc tôi cũng có máu di truyền từ ông anh. Nếu ông anh đã từng yêu nước Mỹ từ khi còn học ở Hội Việt Mỹ, thì tôi trước đây đã yêu Wichita, Kansas, hay San Antonio, Texas qua những hình ảnh anh tôi gửi qua, thì giờ đây, qua ống kính của Don, tôi đã yêu thêm Denver của Colorado và những địa danh xung quanh: Rocky Mountain, thượng nguồn nước chảy xuôi theo dòng Mississippi vào Vịnh Mexico, những trang trại trồng lúa mì. Từ miền tây qua bên đông, đất của tiểu bang này là lưu vực giống sa mạc, trở thành cao nguyên, rồi núi Alpine, rồi đồng cỏ của đồng bằng Lớn. Núi Elbert là đỉnh cao nhất của dãy núi Rocky. Đỉnh Pike nổi tiếng một tí về phía tây của Colorado Springs. Có thể nhìn thấy đỉnh hiu quạnh của nó từ gần biên giới Kansas vào những ngày nắng và mùa đông tuyết phủ trắng một vùng núi bao la, kỳ vỹ…

Đã có lúc, tôi viết thư cho ông anh, đồng ý rằng, người Mỹ hay người ngoại quốc da trắng, có những người rất dễ thương, đáng tin cậy. Vì ngoài Don mà tôi dần thân thiện qua những lá thư, trong bưu điện trại tỵ nạn lúc ấy có thêm mấy chàng thiện nguyện người Tân Tây Lan, trong đó có chàng Peter thật hiền lành, nhút nhát và cực kỳ tốt bụng. Peter có râu quai nón, cánh tay  rậm rạp lông, vậy mà nở nụ cười là thấy… hiền khô. Ngoài giờ làm cho bưu điện, cuối tuần nhóm thiện nguyện vào trại có Hội Thánh Tin Lành để rao giảng Thánh Kinh.  Lần đó bưu điện làm tiệc sinh nhật cho tôi (bất cứ ai đến ngày sinh nhật đều được có một tiệc rất ấm cúng), Peter bị ép lên tặng hoa và ôm tôi, mà mặt anh chàng đỏ rực như ánh mặt trời, thấy thương làm sao.

 

Trở lại câu chuyện với Don, mùa Giáng Sinh, Don gửi cho tôi một gói bưu phẩm, trong đó có một máy cassette nhỏ xài bằng batteries để tôi học English, có cả đồ charge, vài country music tapes, đồ lặt vặt, một hộp bánh cookies và tấm thiệp chúc Noel bên trong có 4 cây candy canes (Don tinh tế biết tôi ở chung với ba cô bạn gái), loại kẹo hình cán dù dùng để trang trí cây thông Giáng Sinh. Nhưng lúc đó chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy candy canes, nên cứ ngỡ đó là một cái gì đó, chắc là để trong thiệp làm vật trang trí theo truyền thống Phương Tây, nên quăng chúng vào một góc nhà. Vài ngày sau, một đứa vô tình làm bể một cây, lấy tay sờ và nếm thì thấy ngọt, lúc đó cả đám mừng húm vì biết đó là…kẹo, bốn đứa xúm lại ăn liền một mạch hết sạch và khen ngon rối rít.

Tôi dần dần cảm mến Don, dù chỉ qua những lá thư, những hình ảnh và những món quà bé nhỏ xinh xinh. Tôi cảm nhận được một chàng trai đứng đắn, mô phạm, có trái tim ấm áp với tình yêu thiên nhiên bao la rộng lớn.

Don luôn muốn cho tôi hiểu biết nhiều hơn về nước Mỹ, giải thích chi tiết từng sự việc, những tấm hình phong cảnh anh chụp đều ghi chú rõ ràng, địa điểm, thời gian và cả những điều thú vị liên quan đến nơi ấy.

Để giải thích sự chậm trễ thư từ mùa cuối năm, Don chụp những tấm hình khi đến post office gửi quà cho tôi, nào là những chiếc xe của post office chất đầy ứ những bao tải chứa thư, những nhân viên đang chuyển những gói parcels ra xe dù ngoài trời đã sập tối lất phất tuyết rơi. Don bảo, mùa này người ta gửi thư gửi quà cho nhau nhiều lắm, dù nhân viên làm việc tăng thêm giờ cũng sẽ vẫn có những thư từ, bưu phẩm chậm hơn những thời gian khác trong năm và nhắn nhủ tôi nếu thư Don đến chậm thì hãy thông cảm cho Don và đừng giận Don, đừng giận ... nước Mỹ nhé (thấy thương ghê chưa!)

Như một cái gì đó rất quen thuộc, mỗi lần đợi chờ thư của Don thật háo hức, một niềm vui dịu dàng êm ái vì thư của Don lúc nào cũng có vài tấm hình và ít nhất là 4 đến 6 trang thư, đem đến cho tôi một nước Mỹ tuy xa xôi nhưng quá đỗi gần gũi, đầy quyến rũ mộng mơ.

Qua mùa Giáng Sinh năm ấy, thư của Don bắt đầu thưa thớt và sau đó là lá thư thật dài, Don nói về bệnh skin cancer vừa mới phát hiện vài ngày trước lễ Giáng Sinh. Bác sỹ nói bệnh trong giai đoạn sớm nên chữa trị không khó khăn, có nhiều hy vọng nhưng sẽ mất nhiều thời gian, nên Don xin nghỉ việc, điều trị và về an dưỡng nơi nông trại lúa mì của cha mẹ vùng ngoại ô Denver.

 

Đó cũng là lá thư cuối cùng của Don, dù tôi tiếp tục gửi vài lá thư thăm hỏi bệnh tình về địa chỉ của Don và nơi trang trại của cha mẹ Don đều không thấy hồi âm. Tôi tin rằng mình chẳng làm điều gì phật lòng người bạn phương xa, nhưng thực sự không tìm được câu giải đáp của sự im lặng này.

Cuối cùng, tôi tạm thời đưa ra hai giả thuyết. Một là, bệnh của Don đã chuyển biến xấu nên anh ấy không còn thời gian và tâm trí dành cho tôi. Hai là, Don cảm thấy mệt mỏi vì mối quan hệ với cô gái Việt Nam nơi trại tỵ nạn với hoàn cảnh quá bấp bênh nên nhân dịp này Don ngưng liên lạc để sau này bắt đầu mối quan hệ mới, có khả năng tiến xa hơn trong tầm tay?

Tôi vẫn mong giả thuyết thứ hai là đúng, tôi sẽ không bao giờ buồn phiền hay trách móc một lời và xin chân thành cám ơn anh đã đến với tôi như một người bạn, Don ơi!

Khi tôi kể câu chuyện này cho các chị trong một nhóm Văn Thơ, mọi người xúm lại đưa ra những giả thuyết khác nhau về sự “biến mất” của Don, thậm chí các chị còn rủ nhau “viết tiếp đoạn kết” cho câu chuyện “tình” vượt đại dương giữa tôi và Don.

Người thì diễn tả như trong phim ngôn tình, chàng khi chữa bệnh thì mặc cảm, tuyệt vọng nên không thư từ cho nàng, cho đến khi bệnh tình khá hơn, chàng vội viết thư cho “người em gái tỵ nạn” thì hỡi ôi, nàng đã lên đường định cư!

Người khác, cho đoạn kết mang dấu ấn phim Hàn Quốc, chàng sau một thời gian hóa trị và xạ trị, đã mắc bệnh ... mất trí nhớ, nên những lá thư nàng gửi tới chỉ làm chàng hờ hững như đám giấy lộn vô tri vô giác.

Vui hơn là một chị cho câu chuyện theo kiểu Quỳnh Giao, là cha mẹ chàng đã phát hiện ra chàng đang có “tình xa” với một cô gái Châu Á, trong khi họ muốn chàng lấy vợ da trắng, môn đăng hộ đối, nên đã cấm đoán và nhân dịp chàng về nhà chữa bệnh, họ đã dấu hết các lá thư của nàng, gây cho chàng hiểu lầm là nàng đã đổi thay khi chàng ngã bệnh nên từ đó... ly tan.

Dĩ nhiên đó chỉ là những “đoạn kết” tưởng tượng vui vẻ, nhưng cuối cùng các chị ấy cũng nghiêm túc, đề nghị giúp tôi tìm Don trên Googles, vì với đầy đủ tên họ và số tuổi thì việc tìm tung tích không đến nỗi khó khăn nếu Don vẫn còn ở Denver.

Tôi bèn nghe lời khuyên, search trên Googles, sau khi narrow down, tôi cũng tìm được vài người mang tên Don Garner, ở lứa tuổi đó, nhưng tiếc là không có hình ảnh (cũng có thể tôi đã không tìm đúng cách). Tôi cũng chẳng muốn làm phiền người khác tìm giúp Don, vì để làm gì chứ?

Tôi và Don, định mệnh cho gặp nhau qua những lá thư, trong một hoàn cảnh đặc biệt ở trại tỵ nạn. Dù tình cảm vừa nhẹ nhàng chớm nở, mến nhau nhiều hơn qua những tâm sự, những câu chuyện của nhau và qua những tấm hình, Don nói yêu mến đất nước và con người Việt Nam, cũng như tôi đã yêu thương Denver, Colorado và nước Mỹ của Don.

Nhưng chúng tôi chưa hề nói lời yêu nhau, chưa một lần nói nhớ thương, chưa dự định những hứa hẹn dài lâu vì đâu biết chuyện thanh lọc ở trại tỵ nạn của tôi sẽ ra sao. Anh vẫn đang là một người bạn, một người thân, một người đều đặn mang cho tôi niềm chia sẻ, ủi an trong mỗi lá thư, giúp những ngày trại tỵ nạn của tôi thêm niềm vui dù tương lai còn mong manh  xa vời.

Để rồi Don bỗng mang bệnh hiểm nghèo, định mệnh mang Don đến với tôi rồi lại mang Don ra khỏi đời tôi không một lời giải thích để lòng tôi vẫn xốn xang khắc khoải đi tìm một lý do.

Dù sao đi nữa, tôi vẫn nhớ ơn Don về những tháng ngày ấy, nhớ nhiều những điều mới lạ Don giới thiệu với tôi về nước Mỹ, về những cây candy canes mùa Noel, về mùa Valentine nào đó Don gửi một gói bưu phẩm với hộp chocolate và kể cho tôi nghe về ngày lễ dễ thương này, không hẳn dành cho những đôi yêu nhau, mà còn cho cả bạn bè thân, gia đình, ngay cả đám học trò cũng tặng thiệp Valentine cho Thầy giáo Don.

Để giờ đây mỗi lần có dịp qua Mỹ, khi máy bay dừng chuyển tiếp ở Denver, tôi lại thấy lòng bâng khuâng, bồi hồi như sắp gặp lại người bạn cũ. Dù anh còn đó hay không, dù anh thế nào, đối với tôi, Denver vẫn là một địa danh đẹp luôn có bóng hình anh.

Valentine năm nay tôi viết lại câu chuyện này, cho Don, một người chưa hề gặp mặt, như một món quà ghi dấu kỷ niệm của chúng tôi, của một thời đã qua khi cả hai còn rất trẻ.

Và đây là bài thơ tôi viết tại phi trường Denver trong một lần chờ chuyến bay và nghĩ về Don:

 

LẠC NHAU Ở DENVER

 

Máy bay vừa hạ cánh

Denver lạ mà quen

Phi trường tôi vừa đến

Chờ mong được gặp Don

 

Người người lướt qua nhau

Terminal kiếm tìm

Hành lý cũng vui theo

Tôi và những niềm riêng

 

Tôi đứng đây, ngơ ngẩn

Giữa đám đông đợi chờ

Hỡi anh, Don thân mến

Đừng để tôi bơ vơ

 

Chuyến bay này nối tiếp

Hẹn gặp tại Denver

Quán café Starbucks

Mình nhắc lại chuyện xưa

 

Anh mặc áo màu gì?

Xung quanh tôi xa lạ

Những bước chân vội vã

Vẫn thiếu vắng một người

 

Lẽ nào anh không nhớ!

Hay anh trễ chuyến bay?

Phi đạo trong nắng gió

Người thì như bóng mây

 

Tôi phải boarding rồi

Qua gate mà ngập ngừng

Thế là anh và tôi

Chẳng được phút tương phùng

 

Máy bay tung đôi cánh

Chìm vào trong mây trời

Anh vẫn là hình ảnh

Trong ký ức mà thôi

 

Edmonton, Valentine 2023

KIM LOAN

 

 

Ý kiến bạn đọc
15/02/202310:35:19
Khách
Lúc còn sinh thời, Nghệ Sĩ La thoại Tân đã nói với khán giả: "Người không có tình yêu cũng như chết mà biết thở."

Kể từ lúc sinh ra đã nói ngay được hai chữ "Hello World !" và trải qua "ba chìm bảy nổi chín lênh đênh", người đọc nhận thấy câu nói trên thấm thía làm sao [í].

Nhân dịp Ngày của Tình Yêu [Valentine's Day] và bắt chước tác giả, xin chia xẻ với độc giả những "câu chuyện tình" [không phân biệt thời gian và không gian] mà người đọc may mắn gặp được trên những nẻo đường đời đã đi qua:

- Đôi tình nhân đẹp nhất: Lý Tầm Hoan và Lâm Thi Âm trong bộ trường thiên tiểu thuyết võ lâm "Đa Tình Kiếm Khách, Vô Tình Kiếm" của Cổ Long

- Piano Concerto 1 & 2 của F. Chopin

- "Gẫy Cành Thiên Hương" của Thanh Hà

- Nhà Vật Lý và Thiên Văn Học [Physicist & Astrotnomist] Janna Levin của Columbia University trong "Black Hole Apocalypse"

Những câu chuyện tình [quá đẹp và hay] trên đã để lại những dấu ấn sâu sắc [không bao giờ phai] trong lòng người đọc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 554,542
Nghĩ đi nghĩ lại sao mấy năm nay đi lấy máu kiểm tra sức khỏe hàng năm mà chẳng phát hiện ra bệnh ung thư? Nếu không vì cú té làm bị gãy xương không biết Hoàng vẫn khỏe mạnh, ăn ngon miệng, làm vườn, xúc tuyết hùng hục như trâu không? Có lẽ lâu nay tế bào ung thư nằm phục sẵn chờ xương bị tổn thương là nhào vô tấn công mà cũng có thể là đến thời kỳ bịnh ung thư phát tán và cú té chỉ là chuyện xảy ra trùng hợp? Sau này Hoàng vào Mayo Clinic thay tủy sống mới biết đa số bệnh nhân đa u tủy đều bị té gãy xương trước rồi càng ngày càng rạn gãy thêm mới khám phá ra. Nhưng cũng vì cú té đó mà chụp MRI chỉ thấy nứt 2 đốt xương làm cả bác sĩ lẫn bệnh nhân cứ nghĩ là do bị loãng xương mà phí thời gian điều trị, tà tà mấy tháng trời để tụi ung thư hoành hành phá thêm mấy cái xương tội nghiệp!
Mấy năm về trước, dịp nghỉ lễ spring break của hệ thống trường công ở thành phố tôi ở luôn trùng với dịp lễ Phục Sinh. Thời gian đó hãng tôi cũng cho nghỉ ngày thứ Sáu trước và ngày thứ Hai sau ngày Chủ Nhật Phục Sinh nên chúng tôi luôn có một long weekend trùng với ngày nghỉ học của hai con. Cho nên gần như là truyền thống khi hai con còn bé là cả nhà chúng tôi luôn đi chơi xa mà thường là lên khu gần thủ đô Washington DC vào dịp lễ Phục Sinh cũng như spring break của hai con. Sở dĩ chúng tôi chọn khu vực này vì thông thuờng đây cũng chính là dịp mà hoa anh đào nở rộ rực rỡ, hoặc ít ra cũng vẫn chưa tàn tùy theo thời tiết hàng năm.
Tác giả đã về hưu một nửa. Làm việc cho hãng làm máy bay. Hiện sinh sống tại Huntington Beach. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Ngôi Nhà Mới tại Quận Cam”, đã được phổ biến từ tháng Ba 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông về chuyện rent phòng ở Little Sài Gòn.
Vạn sự không thông đều làm người ta khó chịu trong đời sống như kẹt xe làm trễ tàu, trễ chuyến bay… internet không thông làm dở dang công việc trong thời đại online, mất hứng với trận bóng đang hay mà internet ì ạch. Tiếng Việt có từ ghép hay là từ “dòng sống”, diễn tả cuộc sống như một dòng sông chảy mãi, chảy mãi. Dòng sông ngưng chảy biến thành ao hồ, không còn là dòng sông nữa, như cuộc sống không thông, cuộc sống bế tắc vậy.
Bây giờ các con, cháu đã về hết. Căn nhà rộng này dường như lại rộng hơn. Tụi nhỏ lao nhao nửa ngày ở đây, rồi lên xe về nhà để ngày mai còn đi làm, đi học, trả lại sự yên ắng cố hữu cho bà Sang. Bà trở vào nhà nhìn ly cà phê nguội ngắt pha từ sáng tới giờ trên bàn. Suy nghĩ vẫn vơ, con cháu về thăm, vui một chút đó thôi, chứ nỗi buồn của riêng bà làm sao cho vơi bớt được!? Chỉ là vài tháng nay thôi, cuộc sống của bà đã đổi thay rõ rệt. Ngày trước, lúc nào cũng kề cận với chồng, giờ đây ông đã ra đi biền biệt. Nỗi buồn đau này biết có ai chia xẻ cho cùng!!?
Nhưng ở trong chăn mới biết chăn có rận. Tưởng vậy chứ không phải vậy. Đó là quãng thời gian tồi tệ nhất trong cuộc đời tôi. Tinh thần suy sụp, sức khoẻ giảm sút. Chỉ từ một phút giâyrủi ro, mọi thứ đều đảo lộn. Từ một người năng động, một trụ cột của gia đình giờ đây tôi trở thành một phế nhân. Mọi chuyện trong nhà, ngoài ngõ bây giờ đều do một tay vợ quán xuyến. Vợ tôi phải vừa chăm sóc tôi vừa lo cho người mẹ già mất trí nhớ. Buồn rầu, chán nản, chúng tôi chưa điên khùng cũng là may mắn lắm rồi.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018.
Lâu lâu chúng ta nghe các bậc cha mẹ tỏ ra nóng lòng, nhắc nhở con mình sao không lấy vợ, lấy chồng đi để ông bà sớm có cháu mà bồng. Những lúc đó tôi có suy nghĩ, mà không nói ra: bồng cháu thì mỏi tay chớ có sướng ích gì mà mong dữ vậy? Tôi có người chị vợ ở Canada vừa mới có cháu ngoại đã gửi cho vợ tôi cả chục cái email báo tin và nói đủ chuyện. Theo tôi, chỉ cần gửi một hay hai cái báo tin mừng là đủ, hà cớ gì phải gửi nhiều lắm thế, chuyện gì mà nói nhiều thế? Tôi có ông bạn hàng xóm. Khi có cháu ngoại thì email cho tất cả bà con nội ngoại xa gần, kể cả Việt Nam chưa đủ, ông còn email cho bạn bè, dĩ nhiên trong đó có tôi, mặc dầu không quen thân. Ông này không viết nhiều, chỉ viết mỗi một câu ngắn mà lặp lại hai lần “Tôi có cháu ngoại rồi! Tôi có cháu ngoại rồi”. Lúc đó tôi chưa hiểu được nỗi vui mừng của bạn tôi, mà nói, dĩ nhiên là chỉ nói với vợ con tôi thôi: Có cháu ngoại chớ có phải trúng số đâu mà làm ầm ì cả xóm vậy?
Tác giả tên thật là Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966, là cô giáo tiểu học khi còn ở Việt Nam. Vượt biên và sống ở trại tỵ nạn Thailand từ 1989-1993. Định cư tại Canada từ 1994 đến nay. Tác giả nhận giải đặc biệt VVNM 2021 và là một trong những cây bút có sức viết mạnh mẽ nhất trong giải thưởng VVNM. Trong tâm trạng tháng Tư, tác giả gởi bài viết mới về cuộc hành trình rời Việt Nam và duyên định với nước Mỹ qua một cặp vợ chồng truyền giáo người Mỹ từ tâm.
Hàng năm, khi tháng Tư trở lại, người Việt tị nạn lại bâng khuâng nhớ về những khổ hận khi miền Nam sụp đổ. Tuy nhiên, đối với những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, tháng Ba mới là tháng đau thương nhất. Rất nhiều người đã gục ngã trên các tuyến đường rút quân đầy hỗn loạn. Với bài viết này, người viết xin chia sẻ nỗi đau “tháng Ba lại về” với các chiến sĩ VNCH và dâng lời tạ ơn đến các chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ miền Nam trong suốt hai mươi năm.
Nhạc sĩ Cung Tiến