Hôm nay,  

Chuyện Má Kể /Kỳ2

30/08/201900:00:00(Xem: 9297)

Chuyện Má Kể  /Kỳ2

Tác giả: Trương Ngọc Anh

Bài số: 5775-20-31582-vb5082919

 

Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết  2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. bài viết mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.

 

***

 

Nói về người Chà Và Châu Giang ở Kinh Đào, Má kể:

-Họ thường làm nghề lưới cá. Con kinh này do dân đào thành là quê nội của má, nước thông thương từ sông vô kinh để xài và tưới ruộng, cây vườn nên gọi là Kinh Đào.

Nhà bên nội có cây cầu ván bắc ngang sông có một xóm nhà của người Chà, tới chợ Châu Đốc rất gần. Dân làng của má gọi họ là người Chà Và. Họ chuyên bán lúa, trồng cây thuốc và cây sapoche trái nhỏ màu nâu, sau này lên Saigon thấy có bán. Họ cũng trồng một loại cây trái lạ, tên là trái lồng mứt. Người Chà Và không ăn thịt heo, bò. Nhà nghèo thì chài lưới chớ họ không biết câu cá, nôm cá như người mình. Đó là những lườn chèo mà ông ngoại hay gọi mua vì ông ngoại thích ăn cá lớn. Lườn chèo giống như chiếc xuồng ba lá, dài hơn một chút, cao hơn nên có thể đứng chèo.

-Đó là lườn chèo, còn xuồng ba lá ra sao hả má? Tôi hỏi.

Má nói:       

-Má có hỏi ông ngoại, ông nói là xuồng chỉ đóng có 3 miếng ván lớn nên kêu là xuồng ba lá.   

Nhờ Má nhớ trước, quên sau, mà tôi có được chút ít hiểu biết thêm về đời sống thương hồ trên ghe chài suốt 14 năm của ông bà ngoại, cậu hai, má ba, má tư, má năm, má tôi thứ sáu, má bảy và Út (mấy dì chúng tôi đều gọi là má).

Má nghỉ lấy hơi, uống ngụm nước, tôi ép má ăn được 1 cái bánh làm bằng 5 loại đậu, má nói ngon. Rồi má kể tiếp, coi như Má tôi đã quên phứt vụ lo lắng thằng “Cục dzàng” của má không có cơm ăn.

Má nói, hồi nhỏ má đau bịnh liên miên cho tới 4 tuổi. Trời đất, Má nhớ chuyện cũ tới 90 năm xưa. Tôi ngồi im, không dám nói xen một câu để Má không bị ngắt dòng suy tưởng. Ông Ngoại kể thầy thuốc chạy hết, thấy Má gần chết rồi nên không chữa nữa. Lúc đó là dưới trào Pháp. Người Pháp họ dán giấy cùng khắp, nói đang có bịnh dịch, ai chết đâu thì rải vôi chôn ngay chỗ đó, không được chở qua chỗ khác, nếu bắt được sẽ ở tù. Ông ngoại rất lo lắng, nghĩ không biết con gái chết ngày nào. Nếu con chết phải chôn ngay bãi theo lịnh nhà nước, khi nước lên sẽ trôi mất xác hay sao, nên ông ngoại quyết định liền là phải lên bờ cất nhà, con gái có chết thì chôn trên đất.

Thuở đó ở Châu Đốc đã có nhà thương, nhưng dân làng quê má chỉ trị thuốc Ta, không tin vào thuốc Tây. Bịnh thì cắt lá sả, lá bưởi, lá bồ bồ để xông hơi, mua đồng xu trà cảm uống, tiêu chảy thì hái lá ổi non ăn, còn nặng nữa thì hốt thuốc Nam, thuốc Bắc. Thầy thuốc Nam không biết bắt mạch như thầy thuốc Bắc. Ông ngoại mua cả thuốc Nam lẫn thuốc Bắc để chữa bịnh cho con gái. Thuốc Bắc đắng lắm nên má rất sợ, thấy chén thuốc là khóc ngất tới khan cổ, bà ngoại phải dỗ bằng cà na ngọt để ngậm sau khi uống thuốc, về sau má không chịu uống nữa vì sợ đắng, bà ngoại phải dùng chiếc đũa cán ngang miệng mới đổ được thuốc vào họng đứa nhỏ 4 tuổi. Má nhớ còn kinh hồn. Bà ngoại thì ngồi khóc sau khi cán thuốc cho con.

Má nhớ lại chuyện ông ngoại cất nhà.

Ông ngoại xin được miếng đất ở gần Đình Mỹ Đức để cất nhà. Đình là chỗ để dân làng thờ phượng những ông Quan tốt đã chết, Vua cho cất Đình để thờ, phù hộ cho dân làng. Ở quê má, Đình gần gũi hơn Chùa.

Ông ngoại lại nghe người trong làng nói nhà gần đình thì làm ăn không khá, mà gia đình làm nghề mua bán cũng phải tin nên đành kiếm miếng đất khác, xa Đình để cất nhà. Thời may, có một người dân làng, kêu ông ngoại cứ cất nhà đối diện nhà ông, muốn cất bao lớn thì cất nên ông ngoại mừng lắm. Thuở đó, khi cất nhà cứ hô một tiếng, sẽ có trai tráng trong làng tới phụ. người thì chần lá dừa nước để lợp mái, kẻ thì đốn tre, cưa cọc, đóng, chẻ dây lạt, tước lá, dựng lên một mái nhà ấm cúng cho cả gia đình ở.

Ông ngoại kêu người bán chiếc ghe thương hồ, có vốn mở tiệm hàng xén ngay nhà để tiếp tục nghề mua bán, lần này cho hàng xóm trong làng. Ông ngoại qua chợ Xà Tỏn, nhờ hàng xóm chỉ tìm thầy thuốc giỏi chữa bịnh cho má là thầy thuốc Bắc trị bịnh ban rất nổi tiếng không lấy tiền, ai hết bịnh cho gì cũng được.

Sáng sớm hôm đó, ông ngoại cõng má trên lưng vô kinh đón xe tới Châu Đốc, từ Châu Đốc chuyển qua xe khác vô Xà Tỏn, rồi đi bộ rất xa mới tới nhà thầy thuốc. Má nói lúc đó mới 4 tuổi mà má vẫn còn nhớ tới bây giờ. Khi tới nơi thì người nhà nói Thầy đã lên núi hái thuốc rồi, vậy là hai cha con ngồi chờ. Má nhớ nhà ông Thầy thuốc khá lớn, cột gỗ mun đen bóng, phía trước nhà có hàng ba, để bộ ván gõ. Ông ngoại tháo cái khăn sọc rằn quấn đầu, lau bộ ván cho sạch trước khi đặt con gái nằm lên, rồi ông đi vòng vòng ngắm sân trước vườn sau, người nhà thầy thuốc nói vườn sau trồng toàn cây thuốc. Rồi Thầy về, bắt mạch, nói Má đau cả hai ban đen và ban trắng (tôi không biết đau ban là bịnh gì?). Thầy hốt cho 40 thang thuốc vì ông ngoại cho biết nhà ở Mỹ Đức, khá xa.

Chuyến về hơi trễ, không có xe nên chặng đường từ Châu Đốc về nhà ở Mỹ Đức ông ngoại phải đi bộ. Thời đó không có xe cộ nhiều, sụp mặt trời là tối thui, làng quê lúc đó chưa có điện, ngang qua những khu mồ mả đom đóm bay đầy.

Ông ngoại đi đâu cũng cầm theo cây thước bản để phòng thân và trị ma (Chuyện này sẽ kể sau). Cây thước bản này làm bằng lõi cây rất rắn chắc, được người bạn làm cây trên núi Cấm đem về cho. Ông ngoại cột một đầu cây 40 thang thuốc, đầu kia ông ngoại cột cái khăn rằn thành võng, cho con gái nằm, rồi ông gánh. Đứa nhỏ 4 tuổi bịnh lâu năm thì chắc nhẹ hều như mấy thang thuốc. Trời tối mịt giơ bàn tay không thấy, hai cha con mới về tới nhà. Bà ngoại chờ sẵn, lấy ngay nửa thang thuốc sắc cho con gái uống. Mỗi thang thuốc chia làm 2 uống hai lần trong ngày, ròng rã 40 ngày. Sau đó ông ngoại còn đi hốt thuốc thêm 2 lần, và lần cuối là thuốc tiêu thì má hết bịnh. Người trong làng ai cũng nói thuốc tiên, con nhỏ đã hấp hối rồi mà còn cứu sống được, ông thầy thuốc đó quá giỏi, nên má mới còn sống tới bây giờ, đã 95 tuổi thọ.

Má cười, thấy má hồng hào hơn.

Vì đứa con gái bị bịnh, mà ông bà ngoại phải từ bỏ cuộc sống thương hồ nhàn nhã trên sông để lên bờ và sống luôn cho tới khi lìa đời ở làng Mỹ Đức.

Nói về cậu Hai, người anh cả của má, má nhớ lại. Về sau cậu Hai lập gia đình, qua chợ Cần Thơ vựa trầu, và gởi trầu về Mỹ Đức cho bà ngoại bán lại. Dân làng quê thuở đó ai cũng ăn trầu nên lá trầu bán rất được giá. Lúc má 12- 13 tuổi, ngày đi học, chiều về phụ bà ngoại cột trầu, gói trầu, được trả công đàng hoàng dù làm ở nhà hay làm mướn cho hàng xóm. Số tiền làm ra má đưa cho bà ngoại giữ giùm, khi đủ thì bà ngoại mua cho chiếc quần Mỹ A. 

Hỏi Má có nhớ gì về người Chà Và ở Tân Châu không, má nói:

-Họ sống riêng biệt thành làng, không sống chung với người Việt. Dù ở ven sông hay trên đất liền, họ cũng cất nhà theo kiểu nhà sàn, với những cửa sổ rất nhỏ. Đàn bà con gái ít khi nào được thấy mặt mũi của họ. Má nói khi họ kêu ghe chài, hay người bán gánh để mua đồ cần, thường là phụ nữ, họ chỉ thò cánh tay trắng muốt mịn màng như bông bưởi ra để trả tiền và lấy đồ. Hỏi, họ có biết nói tiếng Việt không, thì má nói có chớ, họ nói tiếng Việt cũng khá lắm, nhưng họ nói chuyện với nhau bằng tiếng của họ. Má biết phong tục của họ là ăn bốc chớ không dùng đũa như người mình, và không ăn thịt bò, thịt heo, mà họ tin tưởng là ở kiếp trước đó là cha mẹ, là ông bà của họ. Ai mà ăn thịt người trong gia đình, má giải thích đơn sơ như vậy.

Kể chuyện một lúc thì má đói bụng, nhờ vậy mà má ăn hết cả dĩa thức ăn tôi làm cho má, thêm mấy miếng mít vàng giòn ngọt lịm. Tôi nhắc má, đừng kiêng cữ gì nữa, má thèm gì thì cứ ăn. Má nói má làm vậy mà.  Trời, Má dễ thương như đứa con nít, kể chuyện xong thì ăn, rồi ngủ khò. 

Mọi năm, tôi đều mong tới tháng tám, để leo máy bay qua California, có dịp gặp Má, mấy chị em, các cháu trong đại gia đình và gặp bạn bè văn chương; được hít thở mùi muối biển mát mẻ, đi câu, ngắm trăng sao nếu may mắn nhằm dịp trăng tròn.

Năm ngoái, mấy chị em, con cháu hùn nhau mướn một căn ca bin rất rộng, đủ chỗ cho đại gia đình ở trong thời gian 4 ngày trên vùng núi Arrowhead, rất thoả thuê vui vẻ. Năm nay mấy chị em mướn căn cabin nhỏ hơn trên vùng núi cao hơn 7 ngàn dặm Big Bear Lake, chỉ có Má và 8 chị em, cùng cô em dâu ở chơi 4 ngày. Không có đám con nít, nên mấy chị em tha hồ đi chơi không bận bịu. Lúc khăn gói cho má, tôi nhét thêm mấy cái tã dành cho người lớn, phòng khi má bịnh, thì có xài cho tiện vào ban đêm. Chăm người già như chăm đứa con nít, phải dỗ ngon dỗ ngọt khi ăn uống, lúc tắm rửa và nếu thường xuyên nói chuyện thì trí nhớ sẽ tốt hơn. Tôi chỉ có thời gian quá ít ỏi bên má. Bình thường có mấy chị em trong nhà thay phiên nhau lo cho má. Suốt thời gian đi chơi, má ăn ngon, ngủ được, và rất vui khi chúng tôi quây quần bên má, kéo má ra ngoài sân hay ra phòng khách để chụp hình. Trong đám con của má có một đứa thứ bảy là y tá, cho nên rất an tâm giao phó trách nhiệm cho em.

Vào ngày thứ hai ở Big Bear, em út Thúy đã lái xe suốt 11 tiếng đồng hồ từ vùng núi cao hơn 10 ngàn bộ ở hồ Tahoe, chiều tối và suốt đêm xuyên núi đồi quanh co, đường đi nguy hiểm, tới rạng sáng nhỏ Út Thúy bất ngờ xuất hiện ở cửa cabin cùng đứa con gái nhỏ, đến chơi với Má và gia đình được hai ngày, như vậy lần này hình ảnh gia đình chúng tôi có đủ mặt 8 chị em, bên cạnh má tôi. Những lần trước, những năm trước, và trước nữa, họp mặt gia đình, có mặt đứa này cũng thiếu đứa kia cho nên bọn tôi cứ phải ráp hình cho đủ 8 đứa, lần này không cần “photoshop” gì hết, luôn có đủ 8 chị em bên Má. Thấy má vui lắm, cười toét miệng khi chúng tôi làm trò khỉ, đạo diễn cho Má chụp hình với thằng “Cục dzàng”.

Tôi biết, Ba tôi đâu đó, đang nhìn xuống và cười cùng chúng tôi.  Má của chúng tôi sẽ sống lâu trăm tuổi mới gặp lại ba tôi. Ba chờ hơi lâu nha Ba.

Lần sau má con tụ họp, chắc tôi sẽ hỏi để nghe má kể chuyện tình của Ba Má lúc má là cô gái vựa trầu ở Cần Thơ, ba là một chàng Cảnh Sát trẻ tuổi, rất đẹp trai, và… họ gặp nhau.

 

Trương Ngọc Anh

Ý kiến bạn đọc
31/08/201915:17:38
Khách
Mến gởi Loan Le
Có thể Má tôi đã quá già, trí nhớ không còn minh mẫn. Tôi tìm hiểu thêm thì ra khởi thủy họ là người Malaya, theo đạo Phật giáo, sau đó mới có thêm đạo Hồi giáo. Người làng Mỹ Đức gọi họ là Chà Và , có thể đọc trại ra từ chữ Java ( từ Mã Lai Á) . Thời chúng tôi không có chữ Chăm, mà chỉ có chữ Chà Và Châu Giang, hay Chàm ( sắc tộc Chàm ở miền Trung, trong một bài hát Hận Đồ Bàn...người xưa đâu? mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu!)
Cám ơn bạn đã góp ý
31/08/201900:48:20
Khách
Tôi đồng ý với Nicholas là vì những chi tiết tác giả kể ngoài chuyện không ăn thịt heo, họ còn che kín mặt, ở trong nhà che kín mít chỉ có cửa sổ nhỏ xíu: những tập tục thường thấy ở người Hồi giáo. Đạo Phật không có những tập tục này.
30/08/201923:17:19
Khách
Chị Ngọc Anh chơi kỳ nha! Tự nhiên kể vừa viết vừa khóc với em chi. Làm em ứa nước mắt.
Mấy năm trước có lần cả nhà em chọc, không hai dám dành thương má hơn em.
Em nhỏ giờ đi đâu cũng chỉ được cái đem yêu thương, tiếng cười đến cho bạn bè quanh em. Nhưng em biết chắc... ví dụ chừng 20 năm nữa gió lay mẹ rụng. Em thấy trước được đời sẽ hết vui.
Chừng đó, thỉnh thoảng, thiên hạ sẽ bắt gặp một gã tráng niên đứng giữa chốn đông người mà nước mắt chảy dài.
Tui nhớ má tui quá!...
30/08/201919:54:55
Khách
Gốc gác một gia đình di dân thành công ở VN. Thế hệ kế tiếp lại di dân thành công trên đất Mỹ. Hy vọng đây là lần di dân cuối cùng cho gđ chị vì nơi đây đất lành chim đậu. Một câu chuyện thật hay dẫn ta về với những kỷ niệm, nếu không nhắc nhở, sẽ phai mờ dần với thời gian.
30/08/201919:37:42
Khách
Chuyện Má kể về đất nước và con người ngày xưa hay hơn ba cái chuyện về nước Mỹ rất nhiều.
30/08/201918:40:16
Khách
Chào chị Tác Giả Trương Ngọc Anh,
Chúc mừng gia đình chị hạnh phúc quá! Thật diễm phúc còn được chăm lo Mẹ 95 tuổi thọ. Cầu chúc bà khoẻ mạnh sống lâu trăm tuổi quây quần với con cháu thương yêu của bà. Bà luôn là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.
Cám ơn Ngọc Anh đã chia sẻ chuyện đời xưa của Mẹ ở VN, và chuyện hiện tại chăm sóc Mẹ già ở tại nước Mỹ. Mẹ của KD người Bắc di cư hồi năm 1954, nhưng cũng rất thích mặc quần sa teng đen Mỹ A của người Chà Và với áo bà ba, mặt vải này dệt đen bóng bền chắc đẹp lắm, và cũng đắt tiền lắm.
Chúc gia đình luôn vui vẻ bên Mẹ hiền.
Ptkd
30/08/201918:10:46
Khách
Hà Nội thân mến
Là 8 chị em HN à, thằng "Cục Dzàng" thứ sáu lận. Nó nhỏ nhít mà được má nhớ hoài thì ganh tị lắm ạ :-) . Mấy chị em vẫn tìm dịp xúm xít bên má để hưởng phước. Sẽ chuyển lời chúc tới Má .
Xin chúc lành
30/08/201918:06:17
Khách
Từ Huy
Hạnh phúc không biết còn hưởng được bao lâu vì ...mẹ già như chuối chín cây! chỉ sợ gió lay mẹ rụng :-(
Vừa viết vừa khóc thì hạnh phúc sao quá phù du Từ Huy à. Cám ơn đã đọc hết bài và ca hát cho vui.
30/08/201917:57:15
Khách
Kính gởi Nicholas
Người Chà Và Châu Giang (Châu Đốc)
Theo Má tôi, họ là sắc dân rất giống người Ấn Độ về cách ăn mặc, con gái mặc y phục hở bụng, che mặt bằng mạng mỏng, hàng mỏng, về ăn uống (thích ăn cay nên họ thường hay mua nhiều ớt). Họ theo đạo Phật, không phải đạo Hồi. Thời Má tôi, thập niên 30’s, ở miền Tây không có dân Hồi (Giáo) như bây giờ, tràn ngập khắp nơi, ngay ở Saigon tràn lan. Người Ấn rất giỏi về hàng vải, vì vậy tôi nghĩ dệt và nhuộm đen lãnh Mỹ A là một nghề bí truyền của họ, người Việt mình không học được nên sau này không còn nữa khi những người già biết nghề đã qua đời.
Má tôi cũng kể chính mắt má trông thấy lúc còn nhỏ (con nít mà, lục soạn khắp mọi nơi vì tò mò) họ trộn tất cả thức ăn vào một vật dụng tròn dài, nhìn giống cái máng cho heo ăn, và cả nhà xúm chung quanh đó ăn bốc cùng nhau. Như vậy không thể nói họ không ăn heo, bò vì dơ bẩn. Bây giờ tôi không biết họ sống ra sao, có như thời còn nhỏ của má tôi khoảng 90 năm xưa. Có thể thời đại ngày càng văn minh, con cháu họ không còn sống như thời ông bà cha mẹ nữa.
Chúc vui khoẻ
30/08/201917:54:03
Khách
Kính thưa Ô/B Khách
Theo thể lệ VVNM: “…cổ võ việc ghi lại những kinh nghiệm hội nhập của người Việt vào dòng sống nước Mỹ”. Ở phần 1, tác giả đã kể lại những ngày đầu tiên sống trên nước Mỹ năm 1975 với nghề may mền, may màn cửa ăn miếng của 4 má con trong một hãng may. Lúc đó lương giờ rất thấp khoảng hơn 1 đô la một giờ …Chúng tôi hội nhập mau chóng khi không nhận một đồng tiền trợ cấp xã hội và đóng thuế ròng rã hơn 40 năm, tự lực cánh sinh y như người bản xứ.
Kinh nghiệm của chúng tôi rất đổi tầm thường cho nên chắc Ô/B Khách không lưu ý.
Kính chúc vạn sự lành
TNA
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 3,559,416
Mười năm trước chúng tôi mua căn nhà này, kiểu xưa, mái ngói màu đen, phần trên bằng gỗ sơn màu nâu, phần dưới tường gạch màu rêu đậm.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Tác giả nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Sau đây, thêm một bài viết mới của bà.
Tác giả: Lê Như Đức, sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai.
Tác giả định cư tại Pháp nhưng thường lui tới với nước Mỹ, tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng Ba 2010. Họp mặt giải thưởng năm 2011, bà đã bay từ Paris sang California để nhận giải Vinh Danh Tác Giả -thường được gọi đùa là giải Á Hậu. Bài mới của Đoàn Thị viết nhân Ngày Lễ Mẹ 2019.
Tác giả Thanh Mai là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến. Đây là bài mới nhất của cô.
Tác giả Võ Phú dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth University. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục viết lại từ 2016 và nhận giải Danh Dự Viết về nước Mỹ từ 2019. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.” Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm.
Tác giả Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải Đặc Biệt năm 2016. Giải Danh Dự VVNM 2017. Giải Vinh Danh Tác Phẩm năm 2018.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Bà tên thật Nguyễn thị Ngọc Hạnh, trước 1975 đã là giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Saigon. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979., hiện hưu trí tại miền Đông và vẫn tiếp tục viết. Sau đây, thêm một bài viết mới.