Hôm nay,  

Lão Bắc

04/06/200600:00:00(Xem: 138046)

Người viết: Lê Viết Quang

Bài số 1026-1635-348-vb8040606

*

Tác giả Lê Viết Quang là cư dân thành phố Papillion, NE. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là “Hai Chị Em”, một truyện ngắn về lớp tuổi bé thơ trong cảnh gia đình tan vỡ. Lần này, bài viết thứ hai, là chuyện một nhân vật tuổi ngoài 60, cho thấy thêm một cách viết tinh tế, chừng mực.  

*

Lão vừa đi làm về đến nhà đã thấy nàng vừa nói chuyện điện thoại vừa tìm chìa khóa xe. Chắc là lại đi shopping nữa chứ gì" Biết ngay mà.

Nàng nghe có tiếng cửa mở, nhưng không để ý. Nàng nhìn đồng hồ đeo tay thấy năm rưỡi thì biết ngay là lão đã về. Nàng vừa cười vừa nói chuyện điện thoại, rồi nhìn lão hất hàm ra dấu cho lão biết có thức ăn trên bếp. Lại món gà kho, ngán quá. Lão đi vào phòng ngủ thay đồ, nghe loáng thoáng tiếng nàng trên điện thoại: "...vậy à" Đang on sale hả chị" Mở cửa tới mười giờ tối" Chị chờ em với nha, đường đó em chưa lái xe qua lần nào. Chị bảo sao" Constructions" Họ đang sửa đường à" Đường khác" Em không quen lái xa lộ. Thôi, em đi với chị cho chắc ăn. Chờ em chút mà. Vâng, mươi lăm phút nữa em tới ngay."

Lão vào phòng tắm vặn nước, chìa hai ngón tay dưới cái vòi thử xem nước đã ấm chưa. Có tiếng nói văng vẳng vọng vào, nhưng tiếng nước chảy làm lão nghe không rõ. Chắc là lại cái câu quen thuộc: "Em đi tí việc, có cơm sẵn trên bếp đấy bố mày nhá."

Lão rút cái khăn treo trên cái móc cửa lau vội rồi bước ra. Có tiếng điện thoại reo. "Hello, chị Châu à" Vâng, nhà tôi mới vừa đi đấy thôi, chắc là đang trên đường tới. Dạ, chào chị." Lão cười gượng, cúp máy, thở dài. Quay người đứng trước gương, lão nhìn mái tóc ướt lào xòa trên trán. Hình như là tóc ít bạc hơn khi còn ướt. Lão ghé sát mặt vào gương dò xem mớ tóc ướt phủ lên cánh mày rậm bên trái.

Mới đó mà đã mười bốn năm rồi kể từ khi đến Mỹ. Lão nghĩ thầm. Tóc lão bạc gần trắng cả đầu, không kém gì mái tóc của mẹ lão năm xưa. Vợ lão cũng chả còn trẻ đẹp như xưa nữa. Tóc nàng cũng đã lấm tấm bạc, da mặt nàng cũng đã có nếp nhăn khi cười. Nhưng có lẽ lão là người chóng già hơn. Chả tuần nào là nàng chẳng đi shopping với mấy bà bạn cùng làm nail. Không biết cô ấy mua giầy làm gì mà lắm thế. Chỗ nào cũng thấy giầy, trên cái kệ ở ngưỡng cửa có đến chục đôi giầy, gót thấp, gót cao đủ cả. Có đôi cái gót nhọn, mong manh như que củi khô, lão tưởng chỉ cần đứng ẹo người một tí là có thể gãy. Mở cái tủ treo quần áo cũng lại gặp giầy, nghiêng ngửa trên nền thảm, còn mới tinh, có mang bao giờ đâu. Còn nữa, nào những áo quần, hang hà xa số. Có cái mua về treo đó ba năm vẫn chưa mặc. Thế mà tuần nào nàng cũng chăm xem báo. Tin quan trọng ở trang đầu nàng chỉ lướt qua, rồi xuýt xoa như ăn phải ớt khi giở đến mấy trang quảng cáo giầy dép, áo quần với giá on sale có mấy con số 99 in to lên ở đằng sau...

So với đám bạn cùng lứa thì lão là người lấy vợ muộn nhất. Bốn mươi sáu tuổi lão mới lập gia đình. Vợ lão nhỏ hơn lão đến mười lăm tuổi. Gái lỡ thời mà, người ta hay bảo thế. Ở cái thời ấy, ba mươi mốt tuổi mà chửa có chồng, chẳng gọi là lỡ thời thì còn gọi là gì nữa. Thế mà trông cô ấy đẹp lắm ngày lão mới quen. Lão cứ tít mắt lên khi trông thấy cô ấy cười duyên với lão ở cái quán cà phê mỗi buổi sáng lão ghé sang. Trông lão cũng chẳng tệ, ngoài tuồi tứ tuần mà dáng dấp vẫn bảnh bao, làn da đen dạn dày sương gió. Cả xóm ai cũng biết lão mới được thả về từ trại cải tạo ngoài miền Bắc. Gia đình lão chẳng còn ai, chỉ còn mỗi bà mẹ già bán rau muống ở khu chợ chiều ngoài thị trấn.

Hôm lão mang cái túi vải rách từ trại về đến đầu ngõ, mẹ lão đang quét rác trước hiên nhà. Bà thật không nhìn ra đấy là con mình. Khi lão đến gần và nhếch mép cười thì bà mới nhận ra. Bà bảo người ta dù gương mặt có đổi thay theo năm tháng, nhưng cái miệng cười chả bao giờ khác đi. Mà quả thật như vậy, khi vào đến sân nhà trông thấy mẹ già trước hiên, lưng còng thêm, tóc bạc trắng đầu, nhưng khi bà nhận ra lão là con mình và nở nụ cười trước khi khóc vì mừng, thì lão biết ngay đấy là mẹ lão. Bà ôm chầm lấy lão khóc thật to, lão cũng không cầm được nước mắt. Hai mẹ con cứ đứng ở sân mà khóc. Hàng xóm kéo đến chúc mừng mẹ con lão, đám trẻ con cứ nhìn lão chăm chăm, lão cũng chẳng biết chúng nó con nhà ai. Mười hai năm rồi, đổi thay nhiều lắm. Cây xoài trước cửa, cái gốc to một người ôm không giáp. Ngày lão ra đi, nó chỉ to bằng bắp vế lão.

Thế là nhà bây giờ có mẹ có con. Bạn bè lão đời binh nghiệp có đứa cũng được tha về trước hay sau lão, nhưng chả đứa nào hỏi han đứa nào. Thời buổi khó khăn mà, vả lại mới được về, chính quyền địa phương vẫn để ý lắm. Không khéo lại bị vào trại cải tạo lần nữa là xong đời. Nên hồn ai nấy giữ. Chả ai tin được ai.

Đây là lúc làm lại cuộc đời. Làm lại cuộc đời thì phải có cái gì khác đi mới được. Phải cưới vợ. Đúng rồi. Tuổi lão đã gần năm mươi. Phải có con để nối dõi tông đường chứ. Mẹ lão bảo vậy. Thế là cô bán hàng cà phê trở thành vợ lão. Lão vui lắm, nhưng có lẽ mẹ lão là người mừng nhất. Con bà nay vẫn còn sống, trở về đây bằng xương bằng thịt, nó có vợ, rồi bà sẽ có cháu bồng, quí hóa quá, mà cháu trai cho bà nhá. Ước mơ của mẹ lão thật đơn giản thế mà bà chẳng bao giờ được thấy. Bà ngủ hoài không dậy khi cô con dâu vào phòng đánh thức bà sau một đêm hè nóng bức.

Bây giờ lão chỉ còn có cô vợ, trẻ hơn lão mười lăm tuổi. Hằng ngày lão đi làm thuê vớ vẩn cho người ta, ai thuê gì lão làm nấy. Vợ lão vẫn bán quán cà phê. Lão để ý có mấy thằng cứ liếc trộm vợ lão hoài, mà cô ấy còn liếc mắt và cười mới tức chứ. Có lần lão nhắc khéo, cô ấy làm ầm lên: "Chả nhẽ buôn bán mà cái mặt lúc nào cũng chầm dầm như đưa ma à"" Lão cụt lời. Ngày trước làm sĩ quan, nói lính phải xanh mặt. Thế mà bây giờ vợ lại quát vào mặt mình như thế thì có ức không cơ chứ! Đùng một cái, có tin những quan chức chế độ cũ được sang Mỹ theo diện HO. Lão mừng như mở cờ trong bụng. Phen này thì tớ đem vợ tớ sang Tây. Chỉ nghĩ đến chuyện đi Mỹ là lão cười thầm.

Ngày mới sang Mỹ, lúc còn ăn trợ cấp, lão đi làm nhà hàng lấy tiền mặt. Đứng trong bếp rửa bát đĩa vừa nóng vừa mệt suốt cả ngày, lại bị mụ chủ người Tàu la mắng òm sòm mỗi khi lão sơ ý làm vỡ cái bát, cái ly. Tối về lão đi học Anh văn ở một nhà thờ Tin Lành cách xa nhà chừng năm phút lái xe. Vợ lão ở nhà trông con, rảnh rỗi cuối tuần thì ra làm cho cái tiệm tạp hóa của hai vợ chồng lão Tốt. Nghe nói hai vợ chồng lão ấy sang Mỹ ngay sau năm 75. Bây giờ thì đã có cơ ngơi, giàu nhất vùng này. Cái lão Tốt già mà mất nết. Hắn cứ đứng chết trân nhìn vợ mình hoài, còn cười cợt, chọc ghẹo nàng lúc không có bà Tốt bên cạnh. Thật đáng ghét! Thế mà bố mẹ hắn lại đặt cho hắn cái tên là Tốt lúc hắn mới chào đời. Nghỉ, nghỉ ngay! Thôi, không làm cho hắn nữa!

Lão chạy đầu này, hỏi han nơi nọ và tìm cho vợ được chỗ làm nail. Xem ra cái nghề nail an toàn hơn, bởi các khách hàng độc chỉ đàn bà. Mà đàn bà thì dễ quen nhau, lại hay có máu đi mall, mua sắm. Thứ gì cũng thấy cần, nhưng mang về đến nhà để đó ba năm vẫn chưa sờ đến.

Lão nghĩ bâng quơ, thở dài, ngồi phịch xuống ghế sa-lông, ngắm cái hình gia đình treo ở phòng khách.

- Thằng Nam đâu rồi" Chắc là lại tụm ba tụm bảy với mấy thằng bạn Mỹ chứ gì. Đi tới khuya cho mà xem. Đã dặn rồi, đi đâu thì đi, đến mười rưỡi là phải có mặt ở nhà. Thế mà nó có nghe đâu. Lão chặc lưỡi. Thôi kệ, đang lúc nghỉ hè mà. Nó đã chả học bù đầu bù cổ cả năm rồi sao. Cuối tuần mẹ nó lại bắt đi làm nail thêm để có tiền tiêu vặt. Vậy mà nó vẫn thỉnh thoảng ngửa tay xin tiền mẹ. Chả biết nó mua cái giống gì mà bao nhiêu tiền cũng hết. Mới thấy nó có cái cell phone tuần rồi, vứt ở ghế sa-lông. Lão nhặt lên đem cất thì nó bảo không dùng nữa. "Xưa rồi, bây giờ phải xài cái loại này cơ." Nó nói chuyện với lão nửa tiếng Việt, nửa tiếng Mỹ, rồi móc ở cái túi quần jean ra cái cell phone mỏng dính như cái băng cassettes nhạc tiền chiến của Chế Linh mà lão hay nghe hồi mới sang Mỹ.

Trông nó bận cái quần mới ngứa mắt chứ. Đã bảo là kéo lên hẳn hoi, thế mà nó cứ để cái đáy xệ đến ngang đầu gối, mông thì lại lòi ra trông phát tức. Lắm lúc lão phát cáu, quát lên ầm ỹ, nhưng nó bảo phải mặc như thế mới cool. Nó vừa nói vừa nhìn trừng trừng vào mặt lão. Tiên sư cha mầy, nói chuyện với bố mà dám trố mắt lên à" Nó lại bảo như thế mới lịch sự. Ở Mỹ nói chuyện phải nhìn vào mặt nhau mới là người lễ phép, mới tỏ vẻ thành thật, không dối gian. Phải rồi. Nó nói đúng. Mình đã sống ở Mỹ mười mấy năm rồi chứ có phải mới sang đâu mà không biết. Thế mà có lúc lão lại quên, cứ giữ cái kiểu nói chuyện ở Việt Nam, có khi đang nói mà lại quay lưng về phía người đối thoại.

Lão đứng dậy lững thững đi lại bếp, nhưng ngửi thấy mùi gà kho lão lại quay lên phòng khách. Ngó quanh quất, thấy tờ Việt Báo vất dưới gầm bàn, lão mới nhớ ra một điều. Lão bước đến bên bàn, mở máy computer lên để viết tiếp câu chuyện dở dang. Những lúc như vầy thì mới có hứng thú mà viết, chẳng có ai làm phiền. Nhưng bụng lão lại đói cồn cào. Nấu đại tô mì bò là xong chuyện thôi. Lão nghĩ thầm, nước bọt ứa ra dưới lưỡi. Lão bước nhanh xuống bếp, đặt cái xoong nước lên mặt lò, vặn lửa.

Trở lại phòng khách ngồi trước máy computer chờ nước sôi, lão vừa đọc lại phần đầu câu truyện ngắn mới viết tuần rồi. Chả có câu chuyện nào hay bằng chuyện của chính mình, nó vừa thật lại vừa dễ viết, khỏi phải tưởng tượng lôi thôi. Lão vừa nghĩ vừa cười thầm. Đọc lại xem nào. Chỗ này là phần nói về tác giả:

"Sinh ở ngoài Bắc, theo bố mẹ di cư vào Nam lúc mười ba tuổi. Bố chết vì bệnh thương hàn ở đồn điền cao su thời Pháp thuộc..."

Lão lấy ngón tay đẩy cặp kính cận đang xệ xuống bên cánh mũi. Lão nheo đôi mày, dán mắt vào cái màn ánh sáng hắt lên mặt lão. Chỗ này là đang lúc thực tại, phải nói về cuộc sống ở Mỹ mới phù hợp. Vì bài viết dự thi là chủ đề Viết Về Nước Mỹ cơ mà. Nhưng cần phải nói rõ chỗ này. Lý do gì mà bố mẹ đặt cho mình cái tên là Bắc. Lão gãi đầu, liếc mắt nhìn lên cái khung hình ở phòng khách, rồi nhìn xuống bàn phím.

Ơ hay, sao đến chữ Bắc khi đánh cái nút bỏ dấu "á" lại không được thế này. Chắc là thằng Nam lại lên máy chơi làm hỏng cái "sóp que" đánh tiếng Việt chứ gì. Cái thằng, đã bảo rồi, vẫn chứng nào tật nấy. Mỗi lần nó lên máy là mình phải mắc công kêu anh Tài sang sửa lại cái "sóp que" đánh tiếng Việt. Cũng may là nó không xóa mất bài viết dự thi của mình.

Có mùi gì khen khét bay lên từ bếp.

Chết rồi! Nồi nước sôi nấu mì bò! Rõ khổ! Cạn bố nó rồi còn gì. Lúc đang hứng thú viết thì có chuyện ngay. Không chuyện này cũng chuyện nọ.

Lão nhớ có hôm đang ngồi gõ bàn phím lộc cộc thì nghe tiếng vợ lão vang lên từ sau bếp:

"Bố mày rảnh giúp tôi một tay nào."

"Việc gì thế""

"Có việc cần thì mới gọi chứ."

"Chờ tí."

"Khổ chưa, nồi súp lại trào ra nữa rồi. Chồng với con! Mình bận tay không hết việc mà chẳng thấy ma nào giúp. Viết với vẽ. Lúc nào cũng viết, thi với thố. Có bao giờ thấy được cắc bạc nào đâu!"

Thế là bao nhiêu ý văn hay nhảy nhót trong đầu lão, như áng mây mong manh bị gió thổi đi, tan ra ở cuối trời.

Lê Viết Quang

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 48,467,116
Con không dám đi cửa trước, con vòng ra cửa sau. Mùa Xuân đã trở lại, những củ   tulip con trồng trên luống mùa thu năm nào trước khi bỏ đi đã mọc lên và ra hoa, những bông hoa tulip mà cha yêu. Mọi thứ trông buồn bã và tàn tạ, chỉ có những bông hoa tulip rực rỡ. Mầu đỏ và vàng, xen lẫn với những mầu hồng nhạt
Vì nhà tôi khá xa trường, tôi luôn cố gắng căn giờ để dù có kẹt xe cũng tới trường sớm ít nhất nửa giờ. Tôi muốn tránh cho mình tình trạng phải phóng xe vội vã trong nỗi hồi hộp lo âu sợ trễ; hoặc hớt hải tới trường vừa sát giờ dạy; hoặc tệ hơn, tới sau khi chuông vào lớp đã reo! Kinh nghiệm cho tôi biết, chính trong ít phút
Vận nước nổi trôi, tôi đến Hoa kỳ vào tháng chín năm 1975.   Ngồi trên xe từ phi trường về nhà trọ, tôi thấy ngay cái không khí ở đây khác với không khí tại những nơi tôi đã đi qua.   Nó có phần tươi mát hơn, khoáng đạt hơn.   Không phải là một người trong ngành y khoa, tôi không biết cái gì đã kích thích ngũ quan
Tôi chầm chậm đậu xe vào cái chỗ quen thuộc của tôi mỗi sáng chủ nhật, đó là một mảng lề thoai thoải giữa chừng con dốc, được thêu vá bởi màu sắc hoa Vàng Anh và cỏ dại. Bên kia là một cái park rộng thênh thang với những nhánh thông xanh nếu nhìn một lần sẽ không rõ là thiên nhiên hay là tranh vẽ,
Anh đã từng ghé lại Câu Lạc Bộ, Anh nói chuyện với anh em với tất cả hào khí của người lính! Anh khẳng định: Sống là chiến đấu, là chấp nhận thử thách! Đôi khi đời không yêu ta, ta cũng phải há mồm cắn vào nó, ghì chặt nó, như xích của tank cạp lấy mặt đường, bùn lầy
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Anne Khánh-Vân, 33 tuổi, hiện đang sống tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Sau khi tốt nghiệp Kinh Tế Kế Toán và sống một thời gian ở Pháp, cô sang Mỹ và hiện đang vừa làm việc và vừa học thêm về Management Information System.   Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của cô là “Làm Lành Vết Thương Xưa”, kể chuyện gặp gỡ
Tôi cởi tung quân phục, xếp gọn gàng lại, đặt trên đầu giường. Tôi nhìn đôi lon trung úy lần cuối. Nhìn chiến hạm lần cuối. Nhìn những bậc thang lên đài chỉ huy, như đưa tôi lên đài danh vọng thuở nào. Nhìn những bậc thang dẫn xuống hầm tàu, dẫn xuống lòng nước - như chôn vùi tuổi tên, chôn vùi cả một cuộc đời
Đào Như là bút hiệu của   Bác sĩ Đào Trọng Thể, tác giả đã được trao tặng giải Viết Về Nước Mỹ 2005,   "Tác Phẩm Xuất Sắc Nhất", với các bài “Tự Khúc”, “Dấu Chân Người Lính.” Trước 1975, ông là một y sĩ tiền tuyến chuyên về phẫu thuật. Định cư tại cư dân Oak Park, IL (vùng Chicago) Hoa Kỳ, ông là chuyên gia
Sau khi tham dự thánh lễ Phục Sinh về, đang ngồi viết lại những kỷ niệm buồn vui của đoạn đường di tản từ bãi biển Non Nước đến Cam Ranh rồi Vũng Tàu và chấm dứt đời lính tại căn cứ Sóng Thần vào sáng 30-4-75 thì con gái tôi gọi chỉ cho coi ca sĩ Chế Linh trong bộ quân phục
Nhạc sĩ Cung Tiến