Hôm nay,  

Mẹ, Mẹ Ơi!

09/05/201200:00:00(Xem: 112937)
Tác giả tên thật là Yến Phi, 63 tuổi, hiện là cư dân WA. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà cũng là bài viết đầu tay nhân mùa Mothers Day, sau nhiều “vật lộn” khó khăn với chữ Việt trên computer, được tác giả trân trọng gọi là “Tác Phẩm Đầu Tay Dâng Mẹ.” Tựa đề được đặt lại theo nội dung bài viết. Mong tác giả tiếp tục.

Cả mấy tháng rồi, tôi bồn chồn lo lắng về thằng út: nó đi du lịch suốt cả một năm trời. Tôi đã cầu nguyện ngày đêm. Tôi van vái các cha dâng lễ để cầu cho nó được trở về lại Mỹ an lành. Phải, nó đã ra đi biền biệt từ năm lên 18 tuổi đời. Nhớ là tôi đã từng van lạy, đã khóc lóc, đã cản nó đừng đi. Nhưng nó đâu thèm nghĩ chi đến nỗi khổ cũa mẹ già. Nó đâu có thèm nghe, hỡi trời. Có lẽ nhỏ nầy sinh ra đúng vào năm con Ngựa nên nó cứ thích bay nhảy hoài.

Và, rồi hình ảnh Mẹ ngày nào chạy theo khóc lóc năn nỉ Ba ở lại hiện về trong trí nhớ.

Mẹ yêu quý,

Chưa bao giờ con viết về Mẹ. Ai ai người ta cũng đều có những áng văn tuyệt hảo để nói về Mẹ, riêng con mỗi lần nghĩ về Mẹ, con chỉ thấy oán trách và buồn giận vì Mẹ đã bỏ con đi lâu lắm rồi. Cứ mỗi tháng năm về là mỗi lần hình ảnh cái chết tức tưởi của Mẹ như một cuốn phim buồn đẫm nước mắt quay ngược trở về trong tâm trí. 

Ngày đó, tại một làng quê nghèo tận miền Bắc, Mẹ đã đau đớn sinh hai em trai của con. Thời bấy giờ ở làng quê, khi đi sanh không có bác sĩ, cũng chẳng có thuốc men gì, chỉ có những cô đỡ (đẻ) và những dụng cụ thô thiển trong làng. Mẹ đã sinh dưới sự săn sóc của bà nội tại nhà mình.

Thương cho Mẹ, đã ba lần sinh nở, mà lần nào cũng không có mặt Ba ở nhà. Có lẽ không gì quằn quại đau đớn cho bằng người mẹ đi sinh con không chồng bên cạnh. Người xưa thường nói, “đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển mồ côi một mình.” Mồ côi vì trên giường đẻ thì chẳng ai có thể chia được nỗi đau xé ruột. Tuy nhiên sự có mặt của người chồng vẩn là một niềm an ủi lớn lao. Thế nên bên Mỹ, bệnh viện thường cho người chồng vào đứng ngay bên cạnh khi vợ sinh con. Riêng mẹ thì sinh lần thứ ba nầy thật khó khăn, phần vì Mẹ đau buồn vì sự vắng mặt của Ba, phần thì bị ra máu quá nhiều nên Mẹ đã qua đời.

Lúc bấy giờ, tất cả gia đình và bà con đều chờ đợi Ba trở về trong lo âu, nôn nóng. Vậy là Mẹ đã chết không gặp được mặt Ba một lần cuối cùng. Mẹ đã đi không nhắm mắt khi để lại đằng sau bốn đứa con còn thơ dại, trong đó hai đứa con sinh đôi còn đỏ hỏn ẵm trên tay.

Hồi đó, Ba là con út, luôn được bà nội cưng chiều, muốn gì được nấy, như thằng con út của con bây giờ. Babỏ mẹ con ta lại hết cho bà nội săn sóc, để bay nhảy theo sở thích riêng của Ba. Bây giờ đến lượt con cũng quá cưng chiều thằng út. Hình ảnh Mẹ ngày xưa chạy theo van lạy Ba cũng giống con chạy theo đứa con út bây giờ. Con cái thường ít quan tâm đến nỗi sầu khổ của cha mẹ già yếu. 

Nhớ lại buổi chiều đông buồn bã đó, người ta đã bỏ xác lạnh của Mẹ vào quan tài; và rồi một thánh lễ an táng lần cuối tại nhà thờ trước khi chôn mẹ vào lòng đất lạnh. Trong nỗi tê điếng vì sợ, con lẽo đẽo theo sát bà nội theo sau quan tài trước bao đôi mắt tội nghiệp, xót thương cũa xóm làng.

Mẹ ơi! Mẹ linh thiêng, chắc Mẹ đã nghe tiếng khóc của con trong những đêm dài vắng mẹ. Tiếng khóc thê thảm của một đứa trẻ bơ vơ trên đường đời khi biết Mẹ đã bỏ mình ra đi.

Lúc ấy con không hề biết: mất Mẹ là một điều khủng khiếp nhất mà đứa con phải đương đầu với tuổi thơ bất hạnh của mình.

Con giận mẹ thật nhiều, lúc đầu cứ tưởng rằng Mẹ chỉ đi xa một thời gian rồi lại về nhà. Mẹ ra đi để con phải sống côi cút bên bà nội già nua. Con càng giận Mẹ nhiều hơn khi phải sống bên cạnh bà vợ kế của cha mình. Khi đó con lại phải săn sóc một bầy em, cùng cha khác mẹ của mình.

Như vậy đó, Mẹ đã ra đi lúc con còn quá nhỏ để hiểu thế nào là nỗi sầu ly biệt. Mẹ có biết là con gái nhỏ của Mẹ phải gánh trên vai bao nhiêu khổ đau của cả kiếp đời mồ côi Mẹ. Con oán trách cả Chúa tại sao lại nỡ nhẫn tâm bắt Mẹ ra đi khi bầy con còn măng sữa.

Ôi! ngồi nhớ lại thấy thật tủi thân cho những năm dài thiếu Mẹ. Mẹ nghĩ gì khi nhìn con lần cuối trước khi lià bỏ trần gian. Làm sao Mẹ chịu đựng nổi khi thấy con gái Mẹ bơ vơ? Chúng ta đã xa nhau cả một kiếp người.

Rồi tới năm 1954, Ba đã đưa cả gia đình chúng ta theo đoàn người di cư vào Nam và rồi con lại có thêm bà mẹ kế. Gần 30 năm sau con lại liều lĩnh ôm con một mình ra đi khi đứa út còn bú mẹ, đi vượt biển trên một chiếc thuyền nan nhỏ xíu. Mẹ con con lưu lạc cã mấy năm dài trong trại tị nạn Hồng Kông, rồi cũng đặt chân được tới miền đất hứa Hoa Kỳ.


Cho đến giờ nầy khi đã làm mẹ, các con đã thành công khôn lớn trên nước Hoa Kỳ; con vẫn chưa hiểu nổi sao Mẹ có thể chịu đựng nỗi thái độ hờ hững lạnh lẽo của Ba. Điều đáng phục là Mẹ đã phải sống những đêm dài đơn lạnh và còn phải săn sóc cả mẹ chồng.

Mẹ ơi! Có lẽ thái độ gan dạ, nhẫn nhục của Mẹ đã dạy con biết gan lì chống trả với bao nghịch cảnh buồn đau của kiếp đời làm mẹ khó khăn trên xứ người. Mẹ biết con đã từng run rẩy khi học lái xe, khi học máy tính, khi uốn lưỡi học tiếng Anh để giao tiếp với người bản xứ. Rồi bây giờ những đêm dài cô đơn lạnh lẽo trên xứ người, khi chồng và con cái lần lượt bỏ ra đi. Mẹ, vâng, chính Mẹ là một điểm tựa quan trọng cho con để con tập gan lỳ, để không dể dàng lùi bước, không bỏ cuộc trước những khó khăn. Để con hiểu là phải tự lo cho chính mình, và đừng đặt quá nhiều tin tưởng vào người khác, dù người đó là chồng con.

Dù vậy, mỗi lần con nhìn thấy một bà mẹ nựng nịu, ôm con họ là con lại vẫn thấy buồn, nhớ Mẹ. Bao năm dài trôi đi, hình ảnh Mẹ; hơi ấm của Mẹ như vẫn còn đâu đây. Con vẫn thèm, thèm lắm được một lần nằm ôm Mẹ.

Không phải chỉ giận Mẹ thôi đâu, mà con vẫn còn oán giận cả Ba đã không về với Mẹ, để Mẹ phải sống trong lẻ loi và chết khổ như vậy. Nói cho cùng thì chính con cũng chẳng hơn gì. Có bao giờ con dâng tặng cho Mẹ được một chút niềm vui? Con ân hận bởi chưa hề nấu cho Mẹ được một bữa cơm chiều! Hồi đó, chắc cũng như con mình bây giờ, con đã dám nghĩ rằng: Mẹ chỉ là một bà mẹ quê mùa, dốt nát, không tài, khéo đủ để dạy con nên người.

Bao lần con đã thờ ơ trước niềm đau của Mẹ để thản nhiên vui với những tự do, mê dại của riêng mình. Mãi đến lúc tóc đã bạc màu, con mới cảm nhận được phần nào niềm đau ấy khi chồng và con cái đã xa lìa. Thật xót đau trong con như cuống rún vẫn chưa lìa!

Dù có giận Mẹ bao nhiêu, chỗ đứng của mẹ trong tim con vẫn chưa ai có thể thay thế; ngay cả cái chết của mẹ cũng không thể chia lìa được chúng ta. Cám ơn Mẹ đã cưu mang, đã đưa con vào đời và đã cho con những dòng sữa ngọt ngào. Và nhất là Mẹ đã không vì giận hờn Ba mà nỡ vất bỏ con, khi con còn trong bụng mẹ.

Con luôn trân quý những giờ phút khi mẹ con ta bên nhau. Con ao ước chúng ta tìm lại được niềm an bình trong dạ. Giờ này trên thiên đàng, chắc Mẹ cũng cầu cho các con của con, cho chúng nó an lành và may mắn, biết trân qúy tình nghĩa gia đình; có được một tổ ấm với những đứa con ngoan hiền. Biết hiếu thảo, yêu thương cha mẹ, nhất là khi cha mẹ đã già nua..

Bao nhiêu năm trôi giạt trên xứ người, hôm nay ngồi nhìn lại những năm tháng cùng tận của đời mình; đã đến lúc con phải tự mua cho chính mình một chỗ để chôn tấm thân tàn. Để khỏi làm phiền đến con cháu khi ra đi, chắc con sẽ nhờ người mang nắm xương tàn về chôn bên cạnh Mẹ. Con tin là sau bao năm sinh tử phân lìa, linh hồn Mẹ sẽ mỉm cười với đứa con gái nhỏ của Mẹ, khi nó đã chu toàn hết mình bổn phận làm mẹ.

Chiều nay, trong buổi chiều hoang vắng của một ngày tháng tư buồn lạnh trên quê người, con ngồi thả hồn thương nhớ về quê nhà yêu dấu để hình dung về Mẹ; và để theo dõi từng đứa con đang lưu lạc bốn phương trời: đứa ở Seattle, đứa út đi tận bên trời Âu, đứa ở Washington. Dù một mình lẻ loi, con tự an ủi là lũ con của mình, nhưng đứa cháu ngoại của Mẹ, đều có nhà cửa đàng hoàng, có công ăn việc làm xứng đáng: đứa lớn là cán sự xã hội, đứa thành công trên thương trường và đứa út thì thuộc ngành luật. Thằng bé nầy có bao nhiêu tiền đều xài phá cho những chuyến đi chơi xa. Cám ơn Chúa đã giúp chúng nó can trường đứng vững trên đôi chân của mình.

Mẹ ơi! Mẹ biết là mấy tuần nay con cứ miệt mài viết mãi, viết rồi lại xoá. Con đã ngồi vật lộn lâu thật lâu với những dấu sắc, huyền, hỏi, ngả, nặng... trên máy vi tính. Vì không phải là nhà văn, chưa bao giờ viết bài đăng báo trong đời nên con thật run và khớp. Nhưng rồi vì Mẹ, con vẫn lấy hết can đảm để viết những dòng chữ vụng về nầy, như một nén hương lòng, như một lời tạ tội của Ba và của các con, để dâng lên Mẹ của con. Đối với con, điều kỳ diệu nhất con đã làm được là viết xong bài viết khó khăn nầy, như một “tác phẩm đầu tay” để dâng về mẹ.

Con hy vọng những giòng chữ tâm huyết nầy làm hương hồn mẹ được siêu thoát từ đây. 

Rồi ngày lễ mẹ năm nay, con sẽ cài lên áo một bông hồng đỏ tươi để nhớ mẹ. Lung linh trong màn lệ, khuôn mặt dịu hiền của mẹ đang hiện về nhìn con trìu mến, thứ tha.

Mẹ, Mẹ ơi!

Hà Phương

Ý kiến bạn đọc
10/05/201210:23:31
Khách
That cam dong! Cam on tac gia.

T
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 70,665,667
Kông Li là bút hiệu vui vẻ của Phạm Công Lý, tác giả đã có nhiều bài viết về nước Mỹ giá trị, đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2011. Là một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù, ông cùng gia đình đến Mỹ từ tháng 11/1994 theo diện HO, định cư tại Boston. Công việc từng làm: thông dịch cho Welfare, social worker, phụ giáo, tutor toán ở Middle School của Boston Public Schools. Bài mới nhất của ông là chuyện của nhiều câu chuyện vui buồn trong nghề thông dịch.
Tác giả cho biết trước năm 75, khi còn đi học, chỉ viết cho các báo thiếu nhi, học trò. Qua Mỹ từ 1990, hiện là cư dân Myrtle Beach, SC. Hải Âu tham dự viết về nước Mỹ từ 2010, bài đầu tiên: Mẹ Chồng, cho thấy tác giả có bút pháp đặc biệt, khi kể về hồn thiêng yêu thương của bà mẹ. Bài viết mới của cô là một chuyện tình.
Với bút hiệu Xuân Đỗ, tác giả đã góp nhiều bài đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2008 với bài viết "Hắn và cuốn Nhật Ký Đặng Thuỳ Trâm..." Ông định cư tại Mỹ theo diện H.O. và hiện là cư dân Riverside, làm Guest Teacher cho Colton Joint Unified School District (nam California). Mong tác giả sẽ tiếp tục viết.
Trần Nguyên Đán là bút hiệu của Mục sư Lữ Thành Kiến, quản nhiệm Hội Thánh Fort Worth, Texas. Sau giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ năm 2007, ông nhận thêm giải Việt Bút 2009 và là thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2010-2011. Ngoài Việt Báo Online, nhiều thơ và truyện ngắn của ông hiện có trên tạp chí văn chương trên mạng internet, như da mầu, tiền vệ.
Tác giả là cư dân vùng Little Saigon, đã liên tục góp bài cho giải thưởng Việt Báo từ nhiều năm qua, từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới của Tịnh Tâm là một truyện tình già dễ thương.
Chủ Nhật, 12 tháng Tám 2012, vào lúc 12:00PM, Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh, Người Thương Binh VNCH Kỳ 6 sẽ khai diễn tại sân vận động trường Bolsa Grande, Garden Grove. Xin mời đọc bài viết về những nỗ lực “tiền đại hội” của Philato, và hưởng ứng lời kêu gọi đến với đại hội. Tác giả tên thật là Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. 1, hiện làm việc tại học khu Ocean View. Ông đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ, bài nào cũng cho thấy tấm lòng, tình đồng đội và sự lạc quan, yêu đời. 
Lê Thị, 35 tuổi, cư dân Chicago, là tác giả có tên trong danh sách chung kết giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười hai. Với 5 bài viết đã phổ biến, hầu hết về đề tài đồng tính, Lê Thị cũng là một trong những tác giả dẫn đầu về số lượng người đọc Viết Về Nước Mỹ. Sau đây là bài Viết Về Nước Mỹ thứ sáu.
Nguyễn Văn là tác giả có tên trong danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012. Trong năm, ông góp 3 bài viết: “Chuyện Của Bill,” “Tôi Không Là Ai Cả” và bài thứ ba, “Ngày Tháng Buồn Hiu.”
Nguyễn Văn là tác giả có tên trong danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2012. Trong năm, ông góp 3 bài viết: “Chuyện Của Bill,” “Tôi Không Là Ai Cả” và bài thứ ba, “Ngày Tháng Buồn Hiu.” Cả ba bài đều cho thấy cách viết tinh tế và sống động.
Nhà văn, nhà giáo Nguyễn Mộng Giác, tuổi Canh Thìn 1940, vừa tạ thế đúng vào năm Nhâm Thìn. Tang lễ đã được cử hành cuối tuần qua. Trong số tác giả nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2011, có người em gái của nhà văn Nguyễn Mộng Giác la Bà Sương Nguyễn.
Nhạc sĩ Cung Tiến