Hôm nay,  

Học Văn Việt Trên Đất Mỹ

17/07/201900:00:00(Xem: 8879)
Tác giả: Tố Nguyễn
Bài số: 5740-20-31547-vb4071719

Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Sáu 2017,  cô đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX và hiện là cư dân Los Angeles, công việc: làm tax accountant. Bước sang năm thứ 20 của giải thưởng,  tác giả  tiếp tục cho thấy một  sức viết mạnh mẽ khác thường. Sau đây, thêm một bài viết mới.

***

Tôi có một kỷ niệm về ngôn ngữ thật khó quên khi còn làm việc với chị "sếp" người Đại Hàn. Chị ấy đã sống ở Mỹ gần 30 năm,  bằng cấp treo đầy phòng,  viết email cho khách hàng rất hay và nhanh. Vậy mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy vài mẩu giấy ghi nắn nót bằng chữ Đại Hàn dán bên dưới màn hình máy tính của chị.

Một ngày đẹp trời,  thấy chị có vẻ "dịu hiền" hơn thường lệ,  tôi mới rụt rè hỏi: "Chị ơi,  cái “note” chữ Đại Hàn có ý nghĩa  là: "Tuần sau sẽ xử đẹp A Tố" nên chị mới không viết ra bằng tiếng Anh phải hôn?" Chị cười ha hả bảo tôi “đa nghi" quá,  đó là cách chị giữ tiếng "mẹ đẻ" của mình,  vì những chữ “tượng hình" kiểu Tàu,  Nhật hay Đại Hàn nếu không dùng thường sẽ quên mất cách viết. Tôi thật cảm phục tinh thần dân tộc của người Đại Hàn, lại thấy chút hổ thẹn khi tôi đã từng quay lưng với "tiếng nước tôi"...  

Năm nào cũng vậy,  những giây phút ngắm ánh pháo hoa sáng rực giữa bầu trời mừng ngày Lễ Độc Lập July 4th của nước Mỹ,  tôi lại nhớ về quê cũ mà "luống những ngậm ngùi”. Người Do Thái giữ được tiếng nói nên khôi phục lại quê hương,  ngày lễ Độc Lập năm nay tôi thấy đôi chút an ủi là mình cũng đang học hỏi,  giữ gìn  tiếng Việt. Tôi xin kể câu chuyện học lại "tiếng nước tôi" của một "em- không còn bé",  ngày ngày đi làm với những người Mỹ,  người Mễ Tây Cơ.  

Tôi sớm có tâm hồn "mộng mơ" khi còn bé xíu,  từ những năm tháng ấu thơ nơi miền sông nước Hậu Giang. Trước nhà ngoại tôi là con sông với chiếc cầu khỉ "lắt lẻo gập ghềnh", cạnh bên nhà có chiếc xuồng ba lá neo đậu trong cái xẻo nhỏ um tùm những rặng ô rô,  dừa nước.

Tuổi thơ miền thôn quê không có đồ chơi như trẻ nít thị thành,  tôi hay quẩn quanh nghe ông bà kể chuyện đời xưa,  sớm sớm chiều chiều tha thẩn ra sân ngóng coi "nước ròng nước lớn"…

Thuở đó,  xong bữa cơm trưa  là bà Ngoại đặt tôi lên trên chiếc võng giăng ngang bộ ván kê cạnh khung cửa sổ to. Khi nằm trên võng,  những ngày nắng đẹp,  tôi có thể thấy những nhánh hoa bần trắng dập dềnh theo sóng nước ngoài sông,  thấy bụi chuối xanh rào rạt ở  góc sân trong tiếng gà trưa xao xác. Những lúc mưa dầm,  tôi có thể ngắm những giọt nước mưa long lanh chảy dài từ trên mái lá trước hiên nhà, thấp thoáng sau màn mưa là mặt sông trắng xoá…

Dù ngày nắng hay mưa,  bà Ngoại luôn hát ru cho tôi ngủ giấc trưa. Lắm khi cơn buồn ngủ đã về kéo sụp cả bờ mi,  mà tôi cứ cố gượng mở mắt ra nhìn Ngoại,  để bà lại phải tiếp tục đong đưa chiếc võng và ngân nga ví dầu ầu ơ suốt cả buổi trưa hè.

Rồi tôi dọn lên tỉnh,  bên phải nhà tôi là ông “cán bộ”,  luôn có khách đến tiệc tùng,  hát hò những bài kiểu như "đường ra trận mùa này đẹp lắm…”  Tuy 'quàng khăn đỏ’ nhưng tôi không thích nghe những bài hát ấy chút nào,  vì lời nhạc  nó cứ 'sao sao’ ấy. (Sau này tôi thật là  "tâm đắc" khi biết được tận bên kia trời Úc,  nhà báo Đoàn Xuân Thu cũng  viết đại ý là: đường ra trận mà đẹp nỗi gì khi “tên bay đạn nổ ầm ầm ba bên bốn phía!".

Bên trái là nhà của ông bà Hai,  trạc tuổi ông bà ngoại tôi. Ông bà Hai có tới mười ba người con cả gái lẫn trai. Nhà bà Hai rất to,  sống theo kiểu "tứ đại đồng đường", ông bà, con  cái,  dâu rể cùng chung dưới một nóc gia. Các ông con trai khi lấy vợ đều rước về làm dâu,  các cô con gái cũng về nhà ngoại mỗi khi sinh cháu, nên nhà bà Hai hầu như không dứt tiếng hát ru con.

Bà Hai có cả "kho" hát ru vô tận,  bà có thể ngồi ru cháu cả hơn nửa giờ mà không hát trùng lại câu nào. Giọng bà lảnh lót,  vang rền khắp xóm. Tôi vẫn có thể nghe được tiếng bà ru giữa những cơn mưa tháng sáu rào rào đổ trên mái tôn nhà. Nhờ vậy, cho dù đã qua tuổi được đưa  võng ngủ,  tôi vẫn được  ru "ké" từ nhà bà Hai. Trưa trưa tôi vẫn trèo lên võng,  đong đưa theo những lời ru ngọt ngào từ nhà bà Hai vọng vang sang.

Tôi xa tuổi thơ êm đềm nơi miền sông nước,  rồi cũng  cách biệt với  những con đường cây xanh rợp bóng xứ Trà Vinh. Tâm hồn tôi khô cằn và mệt mỏi với những bài luận "rập khuôn" từ năm này qua tháng nọ,  những câu kết  giống nhau cho tất cả các đề văn "Em may mắn được lớn lên khi 'đất nước đã sạch bóng quân thù’,  và "là học sinh dưới mái trường XHCN,  em xin hứa..."

Buồn thay,  tôi biết rằng hầu hết "học sinh XNCN" như tôi chỉ có niềm khao khát “làm giàu”,  phải lăn lộn chèn ép nhau để kiếm tiền bằng mọi giá. Viết ra một đằng,  nhưng tâm tư thì nghĩ về một nẻo,  tôi ngày càng xa rời  văn chương chữ nghĩa.

Mải mê với giấc mơ "nhà lầu xe hơi" nơi phồn hoa đô hội,  tôi quên hết những buổi trưa bên cánh võng kẽo kẹt chốn quê nghèo...  

Rồi tôi sang Mỹ,  phải học hành,  cố gắng bằng mọi cách để đi "làm hãng Mỹ", ráng sao để nói tiếng Mỹ hàng ngày. Đến khi tôi có con gái đầu lòng,  tôi bỗng nhiên muốn hát ru con bằng Tiếng Việt. Lúc ấy tôi mới buồn bã nhận ra tôi đã quên hết rồi những lời ru đã nuôi lớn khôn tôi.

Dù rất muốn,  nhưng câu chữ cứ chạy đi đâu mất hết,  lại thêm lần đầu làm mẹ,  tôi còn rất ngượng miệng nên chưa từng ru bé một câu nào.

Một buổi trưa hè Seattle gió hiu hiu mát,  lác đác vài cánh hoa lê,  hoa táo cuối mùa xen lẫn những chùm trái xanh non đong đưa ngoài khung cửa sổ. Không gian êm ả vậy mà bé con cứ quấy khóc nhè nhè,  nhìn qua nhìn lại không thấy bóng ai,  tôi bỗng thấy mình cất giọng:

"Ầu ơ,  Chim đa đa đậu nhánh đa đa,  
Chồng gần không lấy em lấy chồng xa. .
Lỡ mai cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa bộ kỷ trà ai dâng... "

Bé con đang khóc bỗng dưng im bặt,  ngước đôi mắt to tròn ngạc nhiên nhìn tôi thích thú như thầm nói "hát nữa đi, mom." Giây phút ấy,  bao nhiêu câu ru con của bà Ngoại và bà Hai thuở nào bỗng tuôn ra dào dạt như dòng suối mới được khơi nguồn.

"Ầu ơ. Thò tay mà bứt ngọn ngò
Thương anh đứt ruột giả đò ngó lơ...

Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ...

Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng...

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh

Ví dầu tình bậu muốn thôi
Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra  
….
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về anh học chữ nhu
Mấy trăng em cũng đợi ngàn thu em cũng chờ...

Càng hát,  tôi càng nhớ thêm nhiều bài ru con với nhiều vần điệu. Rồi cả vùng sông nước tuổi thơ như hiện về lung linh màu sắc trước mắt tôi.  Ngoài sân nắng,  hoa lê cũng chợt trắng mỏng manh như  những cánh hoa bần nơi quê ngoại...  Tôi mơ màng thấy bụi chuối  sau hè,  luống khoai bên dậu. Tôi thấy đàn cá lìm kìm lội trong mương nước,  tôi nghe con chim vịt kêu chiều trên cánh đồng xa…

Bé đã chìm vào giấc ngủ,  tôi vẫn say sưa ngồi hát ru… Hôm đó bé con ngủ một giấc trưa thật dài,  dài nhất từ trước đến giờ. Hậu quả là buổi tối đó bé cũng trằn trọc lăn qua lộn lại vì… ban ngày ngủ quá nhiều. Vậy là tôi lại phải cất tiếng ru con,  kỳ này tôi không còn mắc cỡ nữa,  mà cứ ru khe khẽ cho bé chìm vào giấc ngủ với những “cánh cò bay lả bay la...”

Bé lớn lên dần, tôi không còn phải hát ru con ngủ. Rồi cuộc sống tôi lại bộn bề với những vất vả mưu sinh,  tôi tưởng đã quên đi những rung cảm ngọt ngào từ thơ văn tiếng Việt. Cho đến ngày tôi tình cờ đọc được những dòng văn từ Mục Viết Về Nước Mỹ trên Việt Báo. Những dòng văn viết từ trái tim của những cây bút “tài tử" mà làm tôi xao động đến lạ kỳ. Tôi say sưa đọc,  cùng khóc cùng cười với những lời văn khi thì trau chuốt,  khi thì mộc mạc,  đơn sơ.


Rồi tôi "lang thang" đến những trang báo khác,  tôi đọc truyện của giáo sư  Nguyễn Văn Sâm,  tôi đọc thơ của của cố thi sĩ Bùi Giáng,  thơ của thi sĩ Trần Dạ Từ,   biết thêm nhiều nhà văn nhà thơ mà tôi  chưa từng được học ở trường lớp khi xưa... Tôi ngỡ ngàng như lạc vào một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ sau bao năm chỉ cắm cúi đi về trên một con đường tẻ nhạt.

Thời còn ở quê nhà, tôi và nhiều bạn bè đồng trang lứa luôn được dạy phải "học theo Miền Bắc". Mỗi khi viết bài luận văn tôi cứ phải cố tìm cho ra những ngôn từ trau chuốt theo như  những “bài văn mẫu”. Tôi đâu biết rằng nơi tôi sinh ra cũng có một kho tàng văn chương đã bị người ta cố tình "vùi dập". Rồi khi ở giữa xứ người,  tôi lại thấy lòng xao động trước những dòng văn Miền Nam của giáo sư Nguyễn Văn Sâm. Đọc văn của ông,  tôi mơ màng ngỡ như bà Ngoại  đang ngồi cạnh bên mình,  rì rầm kể chuyện "đàn kêu tích tịch tình tang... ", thấy chàng Thạch Sanh oai hùng trong giấc mơ ngày thơ bé. Tôi như ngửi được mùi phù sa trên những chuyến đò Đại Ngãi,  thấy tôi về  giữa xóm chợ bên bến sông quê xôn xao hàng quán  thởu nào...

Sau này tôi lại được đọc những bài  của nhà báo Đoàn Xuân Thu. Văn thơ của  ông thật gần gũi với những ngôn từ Nam Bộ bình dân phóng khoáng,  những tên đất tên vùng gắn liền với tuổi thơ tôi... Rồi tôi đọc được thêm nhiều thơ của cố thi sĩ Bùi Giáng,  để những khi đi giữa  LA  tấp nập mà nhớ về Seattle ngày tháng cũ,  tôi thấy mình cũng như ông “Chiều thu ngồi đếm lá rơi,  Bên đèn phố thị nhớ nơi núi đồi...” Tôi ngồi giữa biển trời mênh mông xứ Mỹ,  lòng bồi hồi mênh mang theo những tự tình về “hồn đất hồn quê”,  lật từng trang thơ ông viết  mà nghe  nức nở “Bây giờ điệu cũ bay xa,  Nguồn trôi nước bạc đổ ra vô cùng. . .”

Rồi tôi cũng muốn viết,  chỉ mong khi viết xong,  đọc lại,  tôi thấy thích câu chuyện của mình và độc giả sẽ không thấy "phiền lòng" khi đọc  câu chuyện của tôi.

Tôi ngồi trên chiếc máy bay êm ái để đến xứ cờ hoa,  không phải trải qua những nỗi lo sợ tuyệt vọng giữa bao cơn sóng gió đầy trời như những những "thuyền nhân" trên  Việt Báo. Những vất vả ngày đầu nơi xứ lạ của tôi đâu có thấm gì với những bậc cha chú mất nước mất nhà phải gạt nước mắt ra đi. Tôi bỏ lại Sài Gòn với chút rung động nhẹ nhàng của thời  sinh viên khờ dại,  nên tôi cũng không có đau thương chia lìa để viết nên những chuyện tình ngang trái  của kẻ ở người đi.  

May thay,  tôi được sống ở Seattle,  xứ sở của mưa và mây mù mà nữ thi sĩ Trần Mộng Tú đã viết "Nắng ở đây hiếm hoi như hạnh phúc,   Anh có về  gửi chút nắng cho em!" Nên bài đầu tiên,  tôi  viết về những ngày tháng ở  Seattle,  thành phố mộng mơ của tôi. Tôi viết về những ân tình ấm áp mà tôi nhận được từ những người bạn,  người chủ,  viết về nỗi buồn khi phải xa Seattle để "mưu sinh" nơi miền nắng ấm.  

Không ngờ 'tổ đãi kẻ khù khờ',  bài viết đầu tiên của tôi trên Việt Báo,  dù câu chữ nhiều vụng về vì đã lâu lắm rồi tôi không viết văn tiếng Việt,  tôi đã nhận được sự khích lệ bao dung từ độc giả và ban giám khảo Viết Về Nước Mỹ. Tôi cảm giác như mọi người đang mở rộng vòng tay đón đứa con "đi lạc" trở về nhà.

Vậy là tôi "hăng hái" viết thêm nhiều bài nữa,  có những từ ngữ Việt đã lâu không dùng đến,  bây giờ tôi phải ráng lục lọi trong trí xem có phù hợp hay không. Tôi cũng thích đọc mục "Comment" - ý kiến bên dưới những bài Viết Về Nước Mỹ để hiểu thêm "tâm tư tình cảm" của những độc giả khắp mọi miền. Như các tác giả đồng trang lứa,  tôi không có nhiều vốn từ ngữ theo nguyên bản của Tiếng Việt như các bậc cha chú thời xưa.  

Ví dụ như khi còn ở Việt Nam,  tôi chưa từng được biết về chữ "diễn hành",  nên khi viết,   tôi cứ dùng là "diễu hành",  hay tôi thật sự không biết chữ "liên hệ" thì phải viết đúng là "liên lạc".

Và cũng may mắn thay,  tôi được xem một bảng so sánh giữa tiếng Việt nguyên bản và tiếng Việt bị "biến đổi" sau này,  nên mỗi lần viết xong tôi hay lọ mọ mở ra xem để thay đổi ngôn từ cho đúng. Tôi cũng nghe theo một lời khuyên trong mục ý kiến độc giả,  tránh đọc những bài văn,  bài báo trong nước để không bị cuốn vào cái vòng chữ nghĩa thay đổi theo "thời đại" ở bên nhà.  

Tôi luôn chạnh lòng với hình ảnh nghèo khó của những nhà văn,  thầy cô giáo dạy môn văn ở Việt Nam. Sau này sang Mỹ,  có cơ hội làm kế toán thuế vụ cho những "writers"- nhà viết kịch bản đã nổi danh hay "tài năng" vẫn còn  "trong lá ủ" của Hollywood,  tôi thấy giỏi văn chương ở xứ Mỹ thật là "đáng công đáng sức”.

Luật lệ minh bạch của của Mỹ luôn bảo vệ quyền lợi cho những người “artist”-nghệ sĩ." Hollywood Writers luôn được trả tiền hậu hĩnh từ lúc nộp bản "script"- kịch bản phim cho đến nhiều năm sau đó,  khi bán được bản quyền phim hay mỗi lần thu thêm được tiền lời từ việc chiếu phim.

Khác hẳn khi ở Việt Nam,  chỉ được học những bài văn sáo rỗng,  phần nhiều là hư cấu có nguồn gốc từ miền Bắc,  nay ở trên đất Mỹ mà tôi lại được học được "văn" của ba miền Bắc,  Trung,  Nam của bao tác giả trên Việt Báo. Những bài văn Viết Về Nước Mỹ có giọng hò mênh mang  nơi cuối dòng sông Hậu,  có nắng lung linh trên từng góc phố Sài Gòn,  có tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga trên dòng Hương Giang xứ Huế,  và có những chìm nổi thâm trầm của người từ đất Bắc phải lìa bỏ làng que...

Tôi học được rằng người Việt Nam ta,  dù khác biệt văn phong,  thổ ngữ vùng miền, vẫn mang chung nét đẹp kiêu hùng của dòng giống con Hồng cháu Lạc. Qua những bài Viết Về Nước Mỹ,  tôi biết được những câu chuyện thương tâm thời tao loạn,  biết được cuộc sống muôn màu của bao người Việt ly hương. Những gương cần cù,  chăm chỉ “dựng cơ đồ" từ hai bàn tay trắng,  những bà mẹ ngồi suốt đêm bên chiếc máy may,  còng lưng  trong tiệm nails,  tiệm giặt... những người cha áo quần lem luốc,  ướt đẫm mồ hôi bên chiếc máy cắt cỏ,  bên những khu nhà xây cất dở dang giữa trời hè nắng nóng chói chang...  Những hy sinh lặng thầm của ông bà nội,  ngoại đã không quản nhọc nhằn để giúp chăm sóc cháu,  cho nước Mỹ có thêm nhiều kỹ sư,  bác sĩ gốc Việt hàng năm. Tôi cũng thấy những sai sót, lầm lỗi của mình nhờ đọc văn về  chuyện đời của người khác.  

Lớn lên từ những lời ru Nam Bộ ngọt ngào, tâm hồn tôi từng được tưới mát như những rặng dừa xanh bên dòng sông êm ả phù sa. Nhưng rồi con sông quê xưa oằn mình với bao nhiêu hoá chất,  những rặng dừa quay quắt héo tàn theo vận sông,  vận nước điêu linh...

May mắn hơn những rặng dừa quê cũ,  tôi được ra ngoài biển lớn mênh mông. Giữa "đại dương" văn hoá trên xứ Mỹ,  tôi đã được "về lại" ngôi nhà "waterfront" của tuổi thơ êm đềm nơi miền quê ngoại,  nhờ những  câu hát ru đã ăn sâu trong tiềm thức,  nhờ vào những trang văn thơ Việt được viết ra giữa xứ người.

Cám ơn Việt Báo và quý cô chú anh chị đã dốc lòng dốc sức cho chương trình Viết Về Nước Mỹ,  cám ơn bao tấm lòng của người viết,  người đọc khắp mọi miền. Tôi luôn tin tiếng  Việt mến yêu của dân tộc ta sẽ mãi trường tồn,  những lớp Việt Ngữ sẽ mọc lên thêm nhiều trên khắp xứ cờ hoa.

Và tôi luôn tin dẫu có xa cách ngàn khơi,  những người con đất Việt vẫn mơ về một ngày "gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,  về sông ăn cá về đồng ăn cua." Mong lắm thay vài mươi năm nữa,  những đứa cháu được sinh ra trên đất Mỹ sẽ biết thương câu ầu ơ ví dầu của người bà luôn đau đáu nỗi nhớ quê...

Tố Nguyễn

Ý kiến bạn đọc
17/07/201921:15:45
Khách
Cảm phục tác giả thiệt tình! Lớn lên khi miền Nam đã bị bức tử, bị nhồi nhét vào đầu bao nhiêu oái oăm, mà Tố Nguyễn vẫn giữ được nét trong sáng của căn bản văn chương tiếng Việt, vẫn thấm đẫm trong tâm hồn những câu hò câu ru của bà ngoại và bà Hai hàng xóm. Mình cũng rất thích và hay hát ru các con khi chúng còn nhỏ, nên "thấm" với tâm tình của Tố Nguyễn lắm! Càng thấm hơn vì hình ảnh mượt mà sống động trong dòng văn của chị khi nhắc về vẻ đẹp bình yên của miền Nam quê ta. Tin chắc rằng dòng chảy dồi dào này này từ chị sẽ tiếp nối đến đời con, đời cháu của chị để duy trì văn hoá Việt.
17/07/201919:06:40
Khách
Tui cứ tiếc sao ngày xưa dân mình hổng giữ chữ Nôm của mình mà xài, xài cái chữ của Tây mà làm chi. Nếu làm biếng, thích tiện lợi cho văn minh tiến bộ thì sao hổng viết chữ Tây, nói tiếng Tây luôn đi cho gọn.
17/07/201914:01:34
Khách
Bai viet hay qua, tu cau noi, loi van mang lai nhung ky niem cua Sai Gon nam xua. Toi da lon len khu dan cu ngheo, binh dan nen cung da tung nghe duoc nhung cau ho ru con, va da lau lam roi bay gio moi duoc nghe lai.
Cam on tac gia that nhieu da nhac lai mot kho tang van chuong binh dan, nhung vo gia nay.
Chuc tac gia va gia dinh luon vui manh.

Houston.
17/07/201913:01:43
Khách
Tác giã làm tôi nhớ thật nhiều về Trà Vinh, có con đường với hàng cây sao cao vút, hoa sao có cánh bay xoay xoay khi có gió. Nhớ địa danh " Ao Bà om", " đầu bờ"... Ôi nhớ quá, nhớ cả tên người bạn học tên Oanh, mặc dù tôi rời Trà Đinh khi còn rất nhỏ, lúc đó mới học lớp 3.
17/07/201909:06:23
Khách
Gia đình tôi đang nghỉ hè ở Thuỵ Sĩ. Cái xứ kỳ lạ, người dân nói bốn thứ tiếng. Khu nói tiếng Pháp, nơi nói tiếng Đức, chỗ nói tiếng Ý pha tiếng Bồ Đào Nha. Hình như lẫn cả tiếng Anh luôn.
Con gái tôi qua Ý và Bồ Đào Nha học hai mùa hè cũng phải chịu thua, phải dùng Google đế hỏi đường. Tôi năm xưa học trường Tây, dựng nghiệp bên Mỹ mà cũng chịu thua, phải dùng động từ tu quơ để diễn đạt.
Giờ lại ngồi trên lan can của căn nhà mướn để đọc văn của tác giả, trau dồi thêm tiếng Việt. Nhớ lại năm xưa vợ tôi cũng ru các con tôi bằng câu:
“Ầu ơ, Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy em lấy chồng xa”
Tôi vừa nhắc lại vợ tôi câu ru trên rồi hỏi sau em không ru câu :
“Trồng trầu thì phải khai mương
Làm trai hai vợ phải thương cho đồng..”
Vợ tôi không trả lời. Tôi nghĩ vợ tôi biết lúc nào tôi cũng luôn công bằng.
Bài viết của tác giả mang nhiều âm hưởng ngọt ngào của người dân quê miền Nam lẫn câu ru, câu hò thấm đậm tình người của người thành phố Sàigòn năm xưa mà chúng ta sẽ mãi không quên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,934,115
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại. Một số bài viết khác của cô được ký tên Thịnh Hương. Nay hai bút hiệu hợp nhất, thành một tác giả thân quen đã hơn 15 năm sinh hoạt với Việt Báo viết về nước Mỹ. Tác giả là cư dân miền Bắc California vừa thông báo đã “trả thẻ, về hưu.” Hy vọng viết về nước Mỹ năm thứ 21 sẽ thêm bài viết mới.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, từng nhận Giải Danh Dự VVNM 2001 và giải chung kết VVNM 2004. Khởi viết cùng lúc với giải thưởng Việt Báo, tác giả đã xuất bản cuốn sách đầu tiên, "Cạnh Đền" và mới nhất là "Bước Chân Định Mệnh". Hai cuốn sách gộp chung gần 1.000 trang truyện ký về cuộc đời của chính tác giả.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ bảy của bà kể về chuyện họp mặt trường cũ trên du thuyền.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới của bà kể về người bảo lãnh của gia đình, một cựu sĩ quan VNCH, cựu tù cải tạo, vừa ra đi tại Atlanta.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, hiện là cư dân Arkansas. Bà sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Tới Mỹ vào tháng 8, 1985, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016 và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, Dong Trinh có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Sau giải Danh Dự VVNM 2018, sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố. Vẫn chuyện Philippinnes, đây là bài mới nhất. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Sau giải Danh Dự VVNM 2018, sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố. Vẫn chuyện Philippinnes, đây là bài mới nhất.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết tên thật là Lâm Túy Mĩ (Milam Túy Hoa). Trước 1975, làm việc cho ngân hàng Việt Nam Thương Tín chi nhánh Nguyễn Tri Phương, Quận 5, Saigòn. Năm 1976, sau đợt đổi tiền, bị sa thải vì có chồng là "ngụy quyền". Vượt biển, và định cư ở Hoa Kỳ từ hè năm 1979. Từng là nhân viên thành phố Long Beach trên 28 năm. Sau hưu trí, hiện là cư dân Santa Ana. Mong tác giả tiếp tục viết.
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ. Năm 2016, bà nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm với bài “Bốn Ngọn Đèn Cầy”. Sau đây là bài viết mới nhất của tác giả.