Hôm nay,  

30 Tháng Tư: Chữ Trầm Chữ Thăng

02/05/201700:00:00(Xem: 16754)

Tác giả: Nguyễn Trung Tây
Bài số 5108-18-30788-vb3050217

Bước qua thêm một lần 30 tháng Tư, mời đọc bài viết mới nhất của tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2010: Nhà văn Linh Mục Nguyễn Trung Tây, thuộc Dòng Truyền giáo Ngôi Lời, tỉnh dòng Chicago. Sau nhiều năm phục vụ tại vùng sa mạc đất đỏ Úc Châu, nhiệm sở truyền giáo mới của Linh mục là Tagaytay, Philippinnes.

* * *

Bắc Mỹ. Giờ này những ngày cuối tháng Tư mùa Xuân năm 2017. Tấm hình máy bay trực thăng đậu trên nóc tòa nhà của thủ đô Sài Gòn giờ phút hấp hối với hàng người nối đuôi dưới chân trực thăngbất ngờ lần đường quay về lại trong đầu.

Kýức của Sài Gòn đập mạnh nhất trong bộ nhớ của tôi (tính đến ngày hôm nay) là một buổi chiều tối tháng Tư năm 74, anh em tôi xuống phố coi phim chiếu trong rạp. Phim tên gì? Quên rồi. Nhưng tôi vẫn nhớ đèn đường xanh đỏ huyền ảo chớp sáng trên những trục lộ giao thông rực rỡ đường Lê Văn Duyệt; Sau Ngã Sáu (?), đường đổi sang mấy tên khác, cuối cùng dẫn thẳng tới tòa nhà Quốc Hội. Về đêm đèn đường, đèn xe hơi, đèn xe máy, đèn tòa nhà Quốc Hội, ngàn vạn ngọn đèn rực sáng Hòn Ngọc Viễn Đông.

Hơn một tháng sau, anh tôi tuổi nhập ngũ khoác lên quân phục Thủy Quân Lục Chiến. Sáng Chúa Nhật, chị tôi tóc đen áo dài trắng nữ sinh dẫn tôi đón xe lửa lên Thủ Đức thăm. Căn cứ Sóng Thần nắng trưa he hôm đó chiếu sáng rực rỡ chị tôi áo trắng tinh khôi và anh tôi màu xanh áo lính. Tôi ngồi nhìn anh ăn xôi đậu phộng, mẹ tôi nấu, gói trong lon Gugô. Giây phút chia tay, mắt chị đỏ hoe hoe! Anh tôi đứng ngay cửa trạm xá, vẫy tay chào!

Tháng 12, hai chị em lại dẫn nhau lên căn cứ Sóng Thần thăm anh. Nhưng lần đó, đợi hoài vẫn không thấy. Mãi sau, hai chị em lủi thủi dẫn nhau ra ga xe lửa về lại nhà. Lon ruốc thịt heo va Gugô cơm hột vịt luộc ngày hôm đó phải mang về, bởi giờ này anh tôi đa theo sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra trấn Cổ Thành Quảng Trị.

Khuya hôm đó, tôi thấy Mẹ tôi ngồi trước bàn thờ miên man với những lời kinh. Bên ngoài, Sài Gòn thủ đô của những ngày cuối năm 74 gió heo may thổi về se da thịt; Sài Gòn vẫn sáng rực rỡ đèn đường; Sài Gòn vẫn rộn ràng những dòng xe cộ ngược xuôi; Sài Gòn có mẹ tôi nằm trên giường, khóc!

Sài Gòn thủ đô lăn những vòng quay dẫn tới biến cố 30 tháng Tư, trận đại hồng thủy bôi xóa chính quyền, tư duy, tên đường phố và nhiều sinh mạng. Sáng định mệnh, tôi đứng ngay bên lề đường Lê Văn Duyệt nhìn những chiếc xe tăng Bắc Việt lăn bánh trên đường lộ thủ đô. Tôi con nít ngơ ngác nhìn những người chủ nhân mới của thành phố. Sài Gòn mùa Xuân 75 trời kéo mây đen khi đài phát thanh Sài Gòn vang vang lời kêu gọi đầu hàng của vị Tổng Thống cuối cùng.

Sài Gòn, giờ thứ 25 tháo chạy và hỗn loạn!

Sài Gòn, xe tăng Bắc Việt húc tung cửa sắt Dinh Độc Lập!

Sài Gòn, mặc cho ngày ngày mẹ tôi đứng ngóng trước cửa, bóng của anh tôi, người lính Thủy Quân Lục Chiến trấn đóng Cổ Thành, vẫn khuất dạng nơi đường chân trời!

Sài Gòn, cải tạo không bản án!

Sài Gòn, kinh tế mới!

Sài Gòn, đổi tiền!

Sài Gòn, đói xanh xao!

Sài Gòn, đêm khuya tiếng gõ cửa công an vang dội!

Sài Gòn, mất niềm tin vào mình, vào người và vào xã hội!

Rồi thuyền gỗ!

Rồi biển xanh!

Rồi hải tặc!

Rồi trại tỵ nạn!

Có những quãng đời Sài Gòn sau biến cố75, viết thêm chi tiết hóa ra dư thừa. Chỉ nhắc lại vài chữ, tựa như tên một cuốn sách, thế cũng đãđủthấm thía!

Đến ngày hôm nay, nghe Việt Dũng hát Lời Kinh Đêm, Khánh Ly hát Đêm Chôn Dầu Vượt Biển của Châu Đình An, xúc động xôn xao nổi dậy, bởi vẫn còn nằm nguyên vẹn trong góc hồn tôi những tháng ngày của chữ Trầm.

Mỗi lần có dịp nhìn thấy hình ảnh của trại tỵ nạn Pulau Bidong, nhìn tượng đài thuyền nhân trên đồi Tôn Giáo, nhìn cầu gỗ Jetty, tôi vẫn bồi hồi, bởi dù muốn dù không, ky ức của một thời lang thang tại đảo lại quay về.

Năm 82, khi đó thuyền gỗ không số nhổ neo tại Rạch Sỏi. Sau bốn ngày lênh đênh trên sóng biển xanh đậm đặc Vịnh Thái, thuyền viễn xứ đặt chân tới bến cảng Marang. Saucùng, thuyền tỵ nạn đặt chân tới đảo Bidong, khoác lên người mã số PB 706. Thời đó, trên nghĩa trang khu F, tôi nhận ra mộ của bạn thời tiểu học. Hắn ngủ yên trên nghĩa trang khu F. Pulau Bidong giờ này còn đó, chứng tích và cũng là hình ảnh của chữ Trầm.


Có lần tôi gặp một người sinh viên Việt Nam du học tại Úc Châu. Em đọc một số bài tôi viết về biến cố 75 và đời tỵ nạn, khi thuyền lênh đênh trên biển, những kinh nghiệm gặp gỡ ngư phủ Thái, những hung tàn trên khoang thuyền gỗ, những tàn nhẫn nhân gian không gặp trong cơn ác mộng. Em hỏi tôi,

— Những chuyện chú viết về thuyền nhân là chuyện thật hay làgiả tưởng vậy?

Tôi không tin vào tai mình, cứ tưởng như có người hỏi, “Chuyện Hitler và lò hơi ngạt là chuyện thật hay giả tưởng vậy?”

Cái thời của chữ Trầm nó thấm sâu và bùi ngùi với câu hỏi của người trí thức tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm đó. Câu hỏi vẫn đi theo tôi. Khi có dịp, tôi lại nhắc lại câu hỏi của em với người Việt và người ngoại quốc. Những hương hồn của thiếu nữ Việt Nam bỏ mình trên biển. Bạn tôi nằm ngủ yên trên nghĩa trang Khu F của đảo Bidong. Bao nhiêu thân xác Việt Nam đã chìm sâu trong lòng biển và gục ngã trên đường bộ. Xác thịt đã tan, xương trắng đã biến mất, nhưng linh hồn của họ vẫn còn đó, vẫn còn anh linh hiển hiện trong cõi muôn trùng.Và riêng tôi, vẫn còn đây, vẫn là một nhân chứng cho một thời của chữ Trầm.

Nhưng cuối cùng chữ Trầm rồi cũng chuyển mình, từ sâu hóa bướm, hóa ra chữ Thăng.

Trận hồng thuỷ trong trang sử Việt mang nhiều mảnh đời Việt Nam trôi dạt sang xứ người. Nhiều sinh mạng đã bỏ mình trên đường bộ và đường biển. Nhưng cũng nhiều sinh mạng đã đặt chân tới bờ.

Sau những ngày tháng vật vờ tại trại tỵ nạn Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Hồng Kông, những người sống sót không tuyệt vọng, mà âm thầm và kiên nhẫn làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng.

Rồi thương xá Việt: Little Saigon, Thung Lũng Hoa Vàng.

Rồi con cái Việt lớn lên hoặc sinh ra trên vùng đất mới, vươn vai cao lớn, sắt son giữ gìn truyền thống Việt Nam.

Rồi những thành tựu mới tinh khôi trên vùng đất mới.

Rồi niềm tin vào mình và vào người, niềm tin vững vàng.

Rồi niềm hy vọng vào một ngày mai, hy vọng tràn trề.

Cộng đồng Việt Nam hải ngoại như rồng vàng Thăng Long ngày nào vươn cao, chuyển mình thay đổi.

Thành công của cộng đồng Việt Nam hải ngoại sau biến cố 75 là một điều không thể từ chối.

Ngày 30 tháng Tư năm 75, anh tôi, lính Thủy Quân Lục Chiến bước chân lên tàu tỵ nạn tại bến cảng Vũng Tàu ngay giờ phút Sài Gòn hấp hối. Mấy năm sau, nhờ những thước vải và hộp thuốc tây anh gửi về, gia đình tôi cầm cự với cơm trộn bo bo và khoai sắn.

Năm 82, sau những hãi hùng với biển và người, thuyền tôi dừng lại tại bến cảng Mã Lai.

Năm 87, mẹ tôi, chị và em đường bộ đặt chân tới đất Thái. Giờ này Thung Lũng Hoa Vàng trở thành quê hương thứ hai (riêng Mẹ tôi, quê hương thứ ba). Nơi đó, thế hệ thứ ba và thứ tư của gia đình tôi đang vươn cao hóa ra thiếu nữ thanh niên, vừa nói tiếng Việt giọng Bắc vừa nói tiếng Anh giọng Mỹ. Cháu tôi đọc bài tôi viết, và không bao giờ hỏi tôi chuyện đó chuyện thật hay giả tưởng, bởi chính bố mẹ các cháu là nhân chứng cho một giai đoạn của chữ Trầm.

Biến cố tháng Tư năm 1975 sẽ được ghi lại trên trang sách lịch sử Việt Nam. Hậu thế Việt Nam sẽ đánh giá và nhận xét về một giai đoạn đánh dấu bằng hai cột mốc: Hiệp Định Geneva chia đôi đất nước năm 1954 và Hiệp Định Paris dẫn tới biến cố năm 1975. Nhận xét vàđánh giá ra sao, không ai biết. Nhưng mỗi lần tháng Tư quay về trên những trang lịch, người Việt hải ngoại vẫn nhắc nhở nhau những câu chuyện của một thời, thời của chữ Trầm.

Riêng đối với tôi, nhắc để nhớ và trên hết tất cả hy vọng tôi học được một bài học quý giá cho riêng mình để chữ Trầm sẽ không bao giờ lập lại thêm một lần nữa.

Ngày 30 tháng 4, như một thường lệ vẫn quay về trên những trang lịch. Tờ lịch 30 tháng Tư hằng năm nhắc nhở người Việt một thời bể dâu và cũng làdấu mốc thành công của cộng đồng hải ngoại. 30 tháng Tư của ngày hôm nay là của chữ Trầm và trên tất cảcũng là của chữ Thăng.

30/4/2017

Nguyễn Trung Tây

Ý kiến bạn đọc
17/05/201704:29:22
Khách
Tôi chưa hề chửi bạn một câu nào nhé bạn Khách. Câu cuối cùng tôi viết là khuyên mọi người đừng có khích bạn không bạn cương lên viết luôn năm bài như bạn hưá thì tội cho VB phải đọc những điều thật vớ vẩn và khôi hài như so sánh cái xe đạp và cái xe hơi. Đây là lần thứ hai bạn viết láo lếu về tôi. Lần đầu tiên bạn cho tôi lấy tên giả trong khi bạn không dám lôi tên thật ra đối thoại. Giờ đây bạn nói tôi cãi không lại nên chửi bới cá nhân bạn. Có ai biết bạn là ai mà lôi được cá nhân bạn ra chửi? Tư cách và lý luận của bạn không đáng để tôi viết lại sau khi đọc cái thí dụ thật quá ấu trĩ thì quả là có đó. Bạn có thấy bạn bị biết bao nhiêu người nói bạn quậy quá chưa.
VN ta có câu: khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ cho người ta ghét. Bạn chính là loại người dở dở ương ương không đáng để cho tôi chửi đâu.
14/05/201704:03:17
Khách
Trừ Tà,
chắc ông nhớ lộn rồi, bên bài Thiên nga lạc đàn, Lê Như Đức và đảng lạc đề bị tôi bắt bí, cãi không lại, quay ra chửi bới cá nhân. Mấy tay cãi chày cãi cối, chẳng biêt lý luận cơ bản là gì thì tôi không phí thời giờ. Thật buồn cho dân tộc VN khi có rất nhiều ngừoi đọc mà không hiểu tiếng mẹ đẻ của mình. Chỉ vì họ trúng giải trong quá khứ không có nghĩa là họ có quyền viết lạc đề
08/05/201722:10:21
Khách
Khách,
Quậy đủ rồi. Trong diễn đài bài "Thiên Nga có đàn có đôi" bị bao nhiêu người vặn cho đuối lý mà vẫn ngoi đầu ngoan cố.
Các tác giả đã lãnh những giải thưởng lớn nhất thì họ viết thêm để đóng góp, không phải vì giải thưởng đâu. Chớ mạo phạm.
04/05/201721:26:29
Khách
Tuy con là người Công giáo, nhưng bài viết này của cha lạc đề cho mục VVNM:

Thể lệ tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ khởi đầu, năm 2000, có ghi rõ: "Mục tiêu của giải thưởng là cổ võ việc ghi lại những kinh nghiệm hội nhập của người Việt vào dòng sống nước Mỹ, càng nhiều chi tiết sống thực càng hay. Bài tham dự có thể là truyện ký, truyện ngắn, tạp bút... Người viết có thể gửi nhiều bài tham dự, hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn là liên quan tới nước Mỹ."

Đây là cái link: https://vvnm.vietbao.com/a239020/hop-mat-viet-ve-nuoc-my-16-thang-8-2015-20-tac-gia-se-nhan-giai-nam-thu-xvi
03/05/201700:55:42
Khách
Hy Vọng Đã Vươn Lên- Nguyễn Đức Quang :

Hy vọng đã vươn lên trong nhục nhằn tràn nước mắt
Hy vọng đã vươn dậy như làn tên
đang rực lên
trong màn đêm

Hy vọng đã vươn dậy trong ngày qua
sang ngày nay
cho ngày mai

Và nếu không có " khúc ruột ngàn dặm" hàng năm gửi về nước mười mấy tỷ đô la thì Việt nam chỉ có mà cạp củ mài và cái đảng Cộng sản "quang vinh" sẽ phải lũ lượt bị gậy lê chân tới các nước chìa tay xin sỏ cứu đói !
02/05/201716:17:50
Khách
Một bài viết hay, ngắn gọn nhưng xúc tích.

"Có lần tôi gặp một người sinh viên Việt Nam du học tại Úc Châu... Em hỏi tôi, Những chuyện chú viết về thuyền nhân là chuyện thật hay là giả tưởng vậy? Tôi không tin vào tai mình....". Tác giả Nguyễn Trung Tây.

Đã được nhào nặn bởi cái đảng Cộng sản chuyên ăn gian nói dối, lừa bịp, xuyên tạc thì người trẻ Việt nam ắt phải nêu ra câu hỏi ấy thôi. Hơn 6,000 người bị chúng chôn sống ở Huế năm 68, hơn 3,000 người bị chúng pháo kích chết thảm ở An Lộc năm 72, v...v...bây giờ chúng đổ vấy cho " Mỹ- Ngụy" !

Sử gia Hà văn Thịnh (ở Việt Nam) phát biểu "Tôi nói thật , lịch sử Việt Nam hiện đại, chỉ có 30% sự thật., 70% giả dối ".

Ngày 21 tháng 6 năm 2015 , Hữu Thọ, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, đã than thở rằng, chưa bao giờ uy tín báo chí giảm sút như hiện nay. Đến nỗi nhiều người không dám nhận là nhà báo, vì báo chí sai sự thật quá nhiều.

Đại tá , nhà báo, phó tổng biên tập báo Nhân dân Bùi Tín : Tôi từng một thời gian là người phát ngôn chính thức của Quân Đội Nhân Dân. Tôi cũng làm báo quân sự trong chiến tranh. Hồi ấy, chúng tôi được lệnh giữ kín tổn thất của ta và nhân lên tổn thất của đối phương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,945,168
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2019 và đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang, dành cho bài viết góp phần phát triển văn hóa Việt tại hải ngoại.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012.
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tham dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải VVNM 2019. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”, tháng 12, “Mùa kỷ niệm” và “Chị em trung học Nữ Thành Nội.”
Tác giả là một Phật tử, pháp danh Tâm Tinh Cần, nhũ danh Quách Thị Lệ Hoa, đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011, với loạt bài tự sự của một phụ nữ Việt thời chiến, kết hôn với một chàng hải quân Hoa Kỳ
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả tên thật là Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu. Sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.