Hôm nay,  

Những Đêm Giao Thừa!

24/01/201700:00:00(Xem: 10217)

Tác giả: Dong Trinh
Bài số 5026-18-30726-vb3012417

Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông,sinh năm 1951, hiện là cư dân Arkansas. Nguyên quán Bình Dương, Việt Nam. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà có ba bài đã phổ biến. Sau đây là bài viết thứ tư.

* * *

Còn một tuần nữa là Tết. Ngày Tết, trước giao thừa là dịp chúng ta nhớ đến ông bà, cha mẹ đã khuất... tôi lại nhớ về nơi mình đã được sinh ra và trưởng thành với biết bao kỷ niệm tuổi thơ ấu.

Nay tóc tôi cũng đã bạc. Tôi giờ đây không còn nôn nao, đợi chờ, không háo hức chờ ăn cơm tối xong để cùng đi chợ tết với má như ngày nào. Vậy mà khi nghĩ tới ngày Tết sắp tới, tôi thấy mình vẫn nôn nao mơ tưởng những ngày xưa cũ, được má thương yêu, chìu chuộng... bất chợt, tôi gọi lên: Má ơi!

*

...Xuân đến rồi xuân đi cho nhân gian đầy lưu luyến...
(tiềng hát Hoàng Oanh như vừa thoáng đâu đây)

Mỗi năm, vào khoảng này, hai bên phố chợ nhộn nhịp hẳn lên, người ta che vội những gian hàng khít nhau, bày bán nào bánh mứt, dưa hấu, trái cây đũ loại, áo quần trẻ con màu sắc sặc sỡ...má với tôi đi ngắm từng món, những cục kẹo mè pha đậu phộng dài bằng ngón tay út, những thùng thèo lèo đầy mè vàng lẫn lộn mấy cục mè đen mà không hiểu sao họ lại gọi là 'cứt chuột'! Khổ thay, tôi lại mê mấy cục này lắm, mùi mè thơm ngát, nhai bắt ghiền! Tôi cũng mê mấy trái chà là ngọt ngất ngây đựng trong mấy cái bao bố, ruồi nhặng bu đầy, mỗi lần mua về má tôi hay trụn lại nước sôi rồi mới cho ăn....ô kìa...đàng kia...những trái hồng khô,dẹp dẹp, tròn tròn trắng mốc...má tôi mua về, ngâm trong tách nước sôi cho mềm ra rồi ăn....

- Dưa hấu đây, dưa hấu đây...xanh vỏ đỏ lòng, ăn vô mát ruột, ăn tới đâu ngọt tới đó, mại vô, mại vô...

Mấy anh con trai đứng rao hàng inh ỏi, mấy bà ngồi chòm hỏm, bưng trái dưa tròn lẳng, xoay qua, lật lại, coi từng cái cuống, trả giá, kỳ kèo....

Chiều 23 Âm lịch, má nấu cơm sớm, xong dọn bếp núc cho thật sạch. Má bày ra một dĩa thèo lèo, một dĩa trái cây, bình bông, 3 chun nước, bộ “ngựa chạy cò bay” để hai ông một bà có mà bay về trời cho kịp giờ trình diện Ngọc Hoàng.

Bắt đầu từ ngày cúng ông táo, hầu như đám học trò không còn tinh thần đâu mà học nữa...tụi tôi đếm từng ngày... “hăm ba đưa Ông Táo. Hăm sáu đưa học trò...” mong cho mau tới ngày nghỉ Tết để sáng chiều chạy theo mấy đám múa cù, để mong mau đến Tết được mặc áo quần mới, được lì xì, để chen vô mấy sòng bầu cua cá cọp, được tiền thì hí ha, hí hửng đi xuống đầu chợ dưới ăn mì, hoành thánh, hột vịt lộn... thua hết tiền, mặt mày bí xị, về nhà nhõng nhẽo xin tiền má mua bánh ăn....

Đêm 30, tôi đi ngủ sớm, không quên dặn má nhớ kêu con dậy lúc 12 giờ...

Ngày xuân, nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm tươi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó....

Bản nhạc Ly Rượu Mừng được phát thanh khắp nẻo đường, đâu đây tiếng pháo lách tách vang lên trong đêm trừ tịch, êm ả, ấm cúng...tôi bước ra ngoài, má tôi đã đặt bàn thờ ngay trước cửa, ngoài trái cây và mứt đũ loại, còn có một trái dừa đã vạc miệng để trong cái tô cho không bị lăn xuống đất!

Đúng 12 giờ khuya, tiếng nhạc ngưng lại, người xường ngôn viên đài phát thanh Saigon thông báo đã đến giờ chào cờ và thông điệp chúc Tết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Đó là những năm cuối thập niên 50, khi miền Nam còn trong cảnh an bình thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Tôi năm nào cũng thích chờ đón giờ phút này để nghe Tổng Thống chúc Tết, để nghe tiếng pháo mừng xuân...sau đó, má tôi thu dọn bàn thờ vô nhà, hai má con dắt nhau lên chùa Bà. Từ nhà đến Ngã Sáu đông nghẹt người, ai ai cũng nói cười hân hoan, tôi nghe lòng rộn rã...tiếng pháo vẫn lác đác bên tai...

Bước chân vô sân chùa, người ta bày bán la liệt bông hoa, nhang đèn, nước uống...má nắm tay tôi tiến vào chánh điện. Khói nhang nghi ngút, mịt mù, tiếng cười tiếng nói, Tàu, Việt râm rang...mắt tôi cay xè..tiếng chách chách ( xách xách xách rồi ngưng...lại xách xách rền khu chánh điện đều đặn từ những ống sâm...

Cúng xong ở tất cả các bàn thờ, má tôi thỉnh 3 cây nhang lớn, đưa cho tôi cầm, xong bước ra sân, tiến đến bụi hoa kiến thủy, một loại hoa trắng nhỏ li ti, hoa hướng xuống mặt đất, có lẽ vì vậy mà họ gọi là hoa kiến thủy...ủa? Mà sao không là kiến địa? Tôi bắt chước mọi người, bẻ một nhánh nhỏ.

Về nhà, má cắm 3 cây nhang lớn vô lư nhang trên bàn thờ và nhánh bông nhỏ chung với cành mai vàng vừa hé nở, những cánh mai vàng kiêu sa, báo hiệu xuân đã về!

Thoang thoảng đâu đây, tôi vẫn còn nghe được mùi khói pháo thơm và ấm, xác pháo hồng ngập trên sân nhà.

Tôi đã theo má đi chùa trong nhiều năm như vậy, cho đến năm tôi mười bảy tuổi, sáng mùng một, tiếng pháo nổ đì đùng khác thường, liên tục, ba má nét mặt âu lo gọi hết mấy anh chị em tôi dậy chui vô hầm trú ẩn. Thời gian này thỉnh thoảng có pháo kích, chiến tranh lan rộng vô thành phố nên nhà nào cũng làm hầm. Ba tôi đặt nhiều bao cát lên trên mặt bộ ván, và xung quanh dưới bộ ván, chỉ chừa đúng một cửa ngõ vừa cho một người chui lọt.

Ngồi lâu ngột ngạt, tôi chui ra ngoài, ra trước nhà nhìn ra khe hở cửa lá sách, tôi run rẩy, hãi hùng nhìn bên ngoài những chiếc xích lô yếu ớt, chú đạp xe ráng gồng mình, chở hai ba người, máu me đầy mình, người nhà chạy bộ theo, tiếng rên, tiếng khóc vang lên cả khu phố...

Ba tôi đến bên tôi hồi nào không hay, ông biểu tôi quay trở lại hầm, tôi vẫn cứ nán lại, đứng chết trân, nhìn, kinh hoàng...ba phải kéo tôi vô nhà trong trở lại. Hàng xóm tôi, cũng có vài anh tử trận từ chiến trường Gò đậu, Bà lụa... những xác người được âm thầm ta lịm, được vội vã mang ra nghĩa địa, không trống, không kèn, không người đưa tiễn, lặng lẽ, cô đơn!

Năm một chín tám lăm, tôi đã là một người đàn bà trên ba mươi, chồng mất, má và các anh chị em qua Mỹ trước đó vài tháng, tôi kẹt lại vì giấy tờ trục trặc, một thân một mình, tôi dẫn con xin ở đậu nhà quen...

Đêm ba mươi vắng vẻ, cô đơn, đúng mười hai giờ khuya, tiếng pháo giao thừa rộn rã... thằng con chín tuổi đang coi đốt pháo vụt chạy vô phòng...tôi lo lắng chạy theo...

- Mẹ ơi! Con nhớ ngoại quá!

Hai mẹ con ôm nhau khóc... một giao thừa cô đơn, không nhà không cửa, không người thân!

Bên ngoài, tiếng pháo đón giao thừa vẫn chưa dứt, gió xuân mang hơi lạnh cuối đông còn sót lại, tiếng lá khô sột soạt... tôi nghe nhớ má quá, nhớ những đêm trừ tịch, hai má con đi lễ chùa...tôi úp mặt xuống gối, nước mắt ướt đẫm, hình bóng má chập chờn.

*

Từ ngày qua Mỹ, chúng tôi vẫn giữ truyền thống cúng giỗ ông bà. Đêm cuối năm im vắng, không nhạc xuân, không pháo nổ, ngoài trời tuyết phủ trắng xoá... chúng tôi vẫn đặt bàn thờ, cũng dừa tươi, cũng mứt, cũng thèo lèo cứt chuột....(cảnh có xuân đâu mà những Tết xưa còn rớt lại trong lòng!)

Thắp nhang xong, tôi vô phòng khách ngồi, chờ nhang tàn, dọn bàn thờ, lái xe đến chùa dự lễ khai kinh đầu năm, coi múa cù, nhận lộc và lì xì của thầy ban...

Tôi trở về nhà trong đêm vắng lặng, chợt thèm một lần sống lại trong cái không khí ấm cúng của gia đình, có ba má, đông đủ các anh chị em, con cháu kéo về quây quần bên nhau, cùng đón giao thừa trong căn nhà xưa nơi phố chợ. Một ước muốn quá đỗi bình dị vậy mà không thể nào có được, mãi mãi chỉ là một giấc mơ!

Ngồi trước bàn thờ ba má, tôi thắp ba nén nhang trước ảnh hai đấng sanh thành. Khói nhang như tóc má từ thế giới hư vô lúc ẩn lúc hiện làm tôi tưởng vọng.

Sáng mùng một tết, trên bàn thờ khói hương nghi ngút, cũng bánh tét, bánh chưng đầy đũ, nhánh mai vàng bằng cành cây khô gằn bông vải, chúng tôi đón Tết âm thầm lặng lẽ, ngoài đường xe cộ vẫn qua lại dập dìu, trẻ con vẫn đến trường, chúng tôi vẫn cày như mọi ngày...

Em có khi nào còn nhớ mùa xuân
Nhớ tháng năm xưa của tuổi dại khờ
Nghe tiếng dương cầm giọng hát trẻ thơ
Có thấy bơ vơ ngày tháng đợi chờ

Nơi ấy bây giờ còn có mùa xuân Có dáng nghiêng nghiêng nụ cười thật gần

....

Gượng nụ cười giọt lệ trên môi
Nhìn đất nước tơi bời một thời, em có hay
Những thành phố em đã đi qua
Đây Ba Lê, đây Luân đôn, đây Vienne
Nhưng có đâu bằng Sài gòn hôm qua
Nhưng có đâu bằng Sài gòn mai sau
Em có mơ ngày hát câu hồi hương

...

Tiếng hát Thái Hiền vang lên bản nhạc Em có khi nào còn nhớ mùa xuân của Ngô Thụy Miên đã quay tôi về thực tại, cho dù tôi cố gắng giữ mãi những tập tục, truyền thống của ngày Tết Việt Nam, cũng chỉ là những cái tết âm thầm trong tâm mà thôi.

Năm mới sắp đến, tôi xin thân ái chúc tất cả các bạn an khang, hạnh phúc.

Fort Smith, tối 21 Tết...nhớ nhà..mà có nhà đâu để nhớ? Nhớ quê? Quê có còn của mình chăng?

Nhà! Nhà nào? Quê? Nghe lòng hỏi lại lòng...Quê nào?

Giao thừa nào của một cõi trời riêng với ta, với những ngày xưa cũ!

Những đêm giao thừa nào đây không cần hỏi, lòng tôi đã biết.

Dong Trinh

Ý kiến bạn đọc
14/03/201707:02:20
Khách
Xin cảm ơn thật nhiều yếu kiến đóng góp của các bạn đã ưu ái cho bài viết của toii nhé!
26/01/201722:11:45
Khách
Cô Dong Trinh oi,
Đọc bài của Cô sao mà buồn quá. Sao có nói lên đúng tâm trạng những người hoài cổ quá ! Tết ở đây chỉ là tương trưng thôi chứ làm sao có lại được những ngày Xuân vui trên quê hương xa xưa nữa ?
Mến chúc cô tuy ở một nơi không có Tết, một năm mới Đinh Dậu thật thái hòa, hạnh phúc!
24/01/201723:05:42
Khách
Người già luôn sống với quá khứ.
24/01/201719:40:29
Khách
Kỷ niệm ấy hôm nay xa rồi
Thời gian cuốn như dòng nước trôi
Còn đâu những giây phút bên nhau
…….
Luyến lưu bao ngày qua
Kỷ niệm ôi thiết tha !
Như tình trăng với sao
Mà nay biết tìm đâu?

Kỷ niệm ấy hôm nay xa rồi
Đành ôm ấp để lòng biết thôi

( " Kỷ Niệm Xa Rồi"- Nguyễn Hữu Thiết)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,337,465
Chủ Nhật tuần này là Father’s Day 17-6-2018. Mời đọc bài của Phan, nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Tác giả đã nhận giải Việt Bút Trùng Quang trong chương trình Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà là nhà giáo dạy ngôn ngữ và văn hóa Việt tại Hoa Kỳ và là tác giả Kim Dzung Phạm, sách “Vietnmese: An Intro-ductory Reader” đã được Viện Việt Học và University of California, Riverside xuấn bản lần đầu trong năm 2008.
2018-1968, đánh dấu 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân, tiếp tục viết về cuộc tàn sát tại Huế. Susan Nguyễn là người gốc Huế, hiện đang định cư tại Canada, lần đầu viết bài gửi Việt Báo. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
Tác giả là một nhà giáo tại Việt Nam. Sang Mỹ, bà có 10 năm làm việc trong ngành du lịch, hiện là cư dân Little Saigon. Với sức viết mạnh mẽ, Phùng Annie Kim đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2016. Sau đây, thêm bài viết mới của bà.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ mười chín, 2017-08. Sau đây là bài viết thứ 11 trong năm.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1941, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Á Khôi, Vinh Danh Tấc giả VVNM 2014. Năm mươi năm sau Mậu Thân, tác giả đã góp thêm niều bài viết đặc biệt. Nhân mùa Father’s Day đang tới, ông góp thêm bài viết về các cô nhi của tử sĩ VNCH hiện sống trên đất Mỹ.
Từ ngày Một tháng Bẩy 2018, giải thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ sang năm thứ hai mươi. Bài viết đầu tiên của Tố Nguyễn tới vào tháng Sáu, tháng cuối của Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX - 2017-18.
Vài hàng vềû tác giả: Trước 1975, là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Định cư tại Hoa Kỳ từ 1985. Công việc: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu tại Westminster, từ 2002. Năm 2005, tác giả đã nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Sau đây là hồi ký của ông dành cho loạt bài “Tưởng nhớ 50 năm trận chiến Tết Mậu Thân 1968 - 2018.”.
Cam Li là cây bút quen thuộc của Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Bài viết là một truyện ngắn mới, tác giả gửi tặng cho bạn đọc Việt Báo.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ những năm đầu tiên và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012. Trước 1975, ông là sĩ quan hải quân VNCH, một nhà thơ quân đội, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Hồi Ức về Trận Chiến Tết Mậu Thân sau đây là chuyện khi tác giả còn là một sinh viên.
Nhạc sĩ Cung Tiến